Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 18
CHUẨN MỰC KÊ TOÁN VIỆT NAM SỐ 18: CÁC KHOẢN DỰ PHÒNG, TÀI SẢN VÀ NỢ TIỀM TÀNGCHUẨN MỰC KÊ TOÁN
VIỆT NAM SỐ 18
CÁC KHOẢN DỰ PHÒNG, TÀI SẢN VÀ NỢ TIỀM TÀNG
(Ban hành và công bố theo Quyết định số
100/2005/QĐ-BTC
ngày 28 tháng 12 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, và
có hiệu lực thi hành từ ngày
05/02/2006)
QUY ĐỊNH
CHUNG
01. Mục đích của
chuẩn mực này là quy định và hướng dẫn các nguyên tắc, phương pháp kế toán các
khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng, gồm: Nguyên tắc ghi nhận; xác định giá
trị; các khoản bồi hoàn; thay đổi các khoản dự phòng; sử dụng các khoản dự
phòng; áp dụng nguyên tắc ghi nhận và xác định giá trị các khoản dự phòng làm cơ
sở lập và trình bày báo cáo tài chính.
02. Chuẩn mực này áp
dụng cho tất cả các doanh nghiệp để kế toán các khoản dự phòng, tài sản và nợ
tiềm tàng, ngoại trừ:
a)
Các khoản mục
phát sinh từ các hợp đồng thông thường, không kể các hợp đồng có rủi ro
lớn;
b)
Những khoản mục
đã quy định trong các chuẩn mực kế toán khác.
03. Chuẩn mực này
không áp dụng cho các công cụ tài chính (bao gồm cả điều khoản bảo lãnh). Các
công cụ tài chính áp dụng theo quy định của chuẩn mực kế toán về công cụ tài
chính.
04. Khi có một chuẩn
mực kế toán khác đề cập đến một loại dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng cụ thể
thì doanh nghiệp phải áp dụng chuẩn mực đó. Ví dụ Chuẩn mực kế toán số 11 “Hợp
nhất kinh doanh” đề cập đến phương pháp ghi nhận của người mua đối với các khoản
nợ tiềm tàng phát sinh khi hợp nhất. Tương tự, cũng có các loại dự phòng được đề
cập trong các chuẩn mực khác, như:
- Chuẩn mực kế toán
số 15 “Hợp đồng xây dựng”;
- Chuẩn mực kế toán
số 17 “Thuế thu nhập doanh nghiệp”;
- Chuẩn mực kế toán
số 06 “Thuê tài sản”. Trừ trường hợp tài sản thuê hoạt động có rủi ro lớn thì áp
dụng chuẩn mực này.
05. Một số khoản
được coi là khoản dự phòng liên quan đến nguyên tắc ghi nhận doanh thu (Ví dụ:
Khoản phí bảo hành) thì áp dụng nguyên tắc ghi nhận doanh thu quy định tại Chuẩn
mực kế toán số 14 “Doanh thu và thu nhập khác”.
06. Chuẩn mực này áp
dụng cho các khoản dự phòng đối với hoạt động tái cơ cấu doanh nghiệp (kể cả
trường hợp ngừng hoạt động). Nếu việc tái cơ cấu phù hợp các định nghĩa về ngừng
hoạt động thì phải trình bày bổ sung theo quy định của các chuẩn mực kế toán
hiện hành.
07. Các thuật ngữ trong chuẩn mực này được hiểu như
sau:
Một khoản dự phòng: Là khoản nợ phải trả không chắc chắn về giá trị hoặc thời
gian.
Một khoản nợ phải trả: Là nghĩa vụ nợ hiện tại của doanh nghiệp phát sinh từ các sự kiện đã
qua và việc thanh toán khoản phải trả này dẫn đến sự giảm sút về lợi ích kinh tế
của doanh nghiệp.
Sự kiện có tính chất bắt buộc: Là sự kiện làm nảy sinh một nghĩa vụ pháp lý hoặc nghĩa vụ liên đới
khiến cho doanh nghiệp không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc thực hiện nghĩa
vụ đó.
Nghĩa vụ pháp lý: Là nghĩa vụ phát sinh từ:
a) Một hợp đồng;
b) Một văn bản pháp luật hiện
hành.
Nghĩa vụ liên đới: Là nghĩa vụ phát sinh từ các hoạt động của một doanh nghiệp khi thông
qua các chính sách đã ban hành hoặc hồ sơ, tài liệu hiện tại có liên quan để
chứng minh cho các đối tác khác biết rằng doanh nghiệp sẽ chấp nhận và thực hiện
những nghĩa vụ cụ thể.
Nợ tiềm tàng:
Là:
a) Nghĩa vụ nợ có khả năng phát sinh từ
các sự kiện đã xảy ra và sự tồn tại của nghĩa vụ nợ này sẽ chỉ được xác nhận bởi
khả năng hay xảy ra hoặc không hay xảy ra của một hoặc nhiều sự kiện không chắc
chắn trong tương lai mà doanh nghiệp không kiểm soát được;
hoặc
b) Nghĩa vụ nợ hiện tại phát sinh từ các
sự kiện đã xảy ra nhưng chưa được ghi nhận vì:
(i) Không chắc chắn có sự giảm sút về lợi
ích kinh tế do việc phải thanh toán nghĩa vụ nợ; hoặc
(ii) Giá trị của nghĩa vụ nợ đó không được
xác định một cách đáng tin cậy.
Tài sản tiềm tàng: Là tài sản có khả năng phát sinh từ các sự kiện đã xảy ra và sự tồn tại
của tài sản này chỉ được xác nhận bởi khả năng hay xảy ra hoặc không hay xảy ra
của một hoặc nhiều sự kiện không chắc chắn trong tương lai mà doanh nghiệp không
kiểm soát được.
Hợp đồng có rủi ro lớn: Là hợp đồng trong đó có những chi phí không thể tránh được buộc phải
trả cho các nghĩa vụ liên quan đến hợp đồng vượt quá lợi ích kinh tế dự tính thu
được từ hợp đồng đó.
Tái cơ cấu doanh nghiệp: Là một chương trình do Ban Giám đốc lập kế hoạch, kiểm soát và có những
thay đổi quan trọng về:
a) Phạm vi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp; hoặc
b) Phương thức hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
NỘI DUNG CHUẨN
MỰC
Các khoản dự phòng và các khoản nợ phải trả
08. Các khoản dự
phòng có thể phân biệt được với các khoản nợ phải trả như: Các khoản nợ phải trả
người bán, phải trả tiền vay,... là các khoản nợ phải trả được xác định gần như
chắc chắn về giá trị và thời gian, còn các khoản dự phòng là các khoản nợ phải
trả chưa chắc chắn về giá trị hoặc thời gian.
Mối quan hệ giữa các khoản dự phòng và nợ tiềm
tàng
09. Tất cả các khoản
dự phòng đều là nợ tiềm tàng vì chúng không được xác định một cách chắc chắn về
giá trị hoặc thời gian. Tuy nhiên, trong phạm vi chuẩn mực này thuật ngữ “tiềm
tàng” được áp dụng cho các khoản nợ và những tài sản không được ghi nhận vì
chúng chỉ được xác định cụ thể khi khả năng xảy ra hoặc không xảy ra của một
hoặc nhiều sự kiện không chắc chắn trong tương lai mà doanh nghiệp không kiểm
soát được. Hơn nữa, thuật ngữ “nợ tiềm tàng” được áp dụng cho các khoản nợ không
thoả mãn điều kiện để ghi nhận là một khoản nợ phải trả thông
thường.
10. Chuẩn mực này
phân biệt rõ các khoản dự phòng với các khoản nợ tiềm tàng, như
sau:
a) Các khoản dự
phòng là các khoản đã được ghi nhận là các khoản nợ phải trả (giả định đưa ra
một ước tính đáng tin cậy) vì nó là các nghĩa vụ về nợ phải trả hiện tại và chắc
chắn sẽ làm giảm sút các lợi ích kinh tế để thanh toán các nghĩa vụ về khoản nợ
phải trả đó; và
b) Các khoản nợ tiềm
tàng là các khoản không được ghi nhận là các khoản nợ phải trả thông thường, vì:
Các khoản nợ phải trả thường xảy ra, còn khoản nợ tiềm tàng thì chưa chắc chắn
xảy ra.
Nguyên tắc ghi
nhận
Các khoản dự phòng
11. Một khoản dự phòng chỉ được ghi nhận khi thoả mãn các điều kiện
sau:
a) Doanh nghiệp có nghĩa vụ nợ hiện tại (nghĩa vụ pháp lý hoặc nghĩa vụ
liên đới) do kết quả từ một sự kiện đã xảy ra;
b) Sự giảm sút về những lợi ích kinh tế có thể xảy ra dẫn đến việc yêu
cầu phải thanh toán nghĩa vụ nợ; và
c) Đưa ra được một ước tính đáng tin cậy về giá trị của nghĩa vụ nợ
đó.
Nghĩa vụ nợ
12. Rất ít trường hợp không thể chắc chắn được rằng liệu doanh nghiệp có
nghĩa vụ nợ hay không. Trong trường hợp này một sự kiện đã xảy ra được xem là
phát sinh ra nghĩa vụ nợ khi xem xét tất cả các chứng cứ đã có chắc chắn xác
định được nghĩa vụ nợ tại ngày kết thúc kỳ kế toán
năm.
13. Trong hầu hết
các trường hợp đều có thể xác định rõ được rằng một sự kiện đã xảy ra có phát
sinh một nghĩa vụ nợ hay không. Một số ít trường hợp không chắc chắn được rằng
một số sự kiện xảy ra có dẫn đến một nghĩa vụ nợ hay không. Ví dụ: Trong một vụ
xét xử, có thể gây ra tranh luận để xác định rằng những sự kiện cụ thể đã xảy ra
hay chưa và có dẫn đến một nghĩa vụ nợ hay không. Trường hợp như thế, doanh
nghiệp phải xác định xem liệu có tồn tại nghĩa vụ nợ tại ngày kết thúc kỳ kế
toán năm hay không thông qua việc xem xét tất cả các chứng cứ đã có, bao gồm cả
ý kiến của các chuyên gia. Chứng cứ đưa ra xem xét phải tính đến bất cứ một dấu
hiệu bổ sung nào của các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm. Dựa
trên cơ sở của các dấu hiệu đó:
a) Khi chắc chắn xác
định được nghĩa vụ nợ tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm, thì doanh nghiệp phải
ghi nhận một khoản dự phòng (nếu thoả mãn các điều kiện ghi nhận);
và
b) Khi chắc chắn
không có một nghĩa vụ nợ nào tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm, thì doanh nghiệp
phải trình bày trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính một khoản nợ tiềm tàng,
trừ khi khả năng giảm sút các lợi ích kinh tế rất khó có thể xảy ra (như quy
định tại đoạn 81).
Sự kiện đã xảy
ra
14. Một sự kiện đã
xảy ra làm phát sinh nghĩa vụ nợ hiện tại được gọi là một sự kiện ràng buộc. Một
sự kiện trở thành sự kiện ràng buộc, nếu doanh nghiệp không có sự lựa chọn nào
khác ngoài việc thanh toán nghĩa vụ nợ gây ra bởi sự kiện đó. Điều này chỉ xảy
ra:
a) Khi việc thanh
toán nghĩa vụ nợ này do pháp luật bắt buộc; hoặc
b) Khi có nghĩa vụ
nợ liên đới, khi sự kiện này (có thể là một hoạt động của doanh nghiệp) dẫn đến
có ước tính đáng tin cậy để bên thứ ba chắc chắn là doanh nghiệp sẽ thanh toán
khoản nợ phải trả đó.
15. Báo cáo tài
chính chỉ liên quan đến tình trạng tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm kết
thúc kỳ báo cáo và không liên quan đến vấn đề tài chính có thể xảy ra trong
tương lai. Vì vậy, không cần phải ghi nhận bất kỳ một khoản dự phòng nào cho các
khoản chi phí cần thiết cho hoạt động trong tương lai. Các khoản nợ phải trả
được ghi nhận trong Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp là những khoản nợ phải
trả đã xác định tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm.
16. Chỉ có những
nghĩa vụ nợ phát sinh từ các sự kiện đã xảy ra độc lập với các hoạt động trong
tương lai của doanh nghiệp mới được ghi nhận là các khoản dự phòng, ví dụ chi
phí phạt hoặc chi phí xử lý thiệt hại do vi phạm pháp luật về môi trường, đều
làm giảm sút các lợi ích kinh tế và tất yếu sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động trong
tương lai của doanh nghiệp. Tương tự, doanh nghiệp phải ghi nhận một khoản dự
phòng cho những chi phí, như chi phí tháo dỡ trang thiết bị khi di chuyển hoặc
tái cơ cấu doanh nghiệp. Các chi phí phát sinh do áp lực về thương mại hoặc qui
định của pháp luật mà doanh nghiệp dự định phải chi tiêu như trường hợp đặc biệt
trong tương lai thì không được lập dự phòng (Ví dụ: Lắp thêm các thiết bị lọc
khói cho một nhà máy). Các biện pháp dự định thực hiện trong tương lai của doanh
nghiệp có thể tránh được chi phí (Ví dụ: Doanh nghiệp dự định thay đổi phương
thức hoạt động), doanh nghiệp sẽ không phải chịu nghĩa vụ hiện tại cho các khoản
chi phí trong tương lai và cũng không phải ghi nhận bất kỳ một khoản dự phòng
nào.
17. Một khoản nợ
phải trả thường liên quan đến một bên đối tác có quyền lợi đối với khoản nợ đó.
Tuy nhiên, cũng không cần thiết phải xác định rõ bên có quyền lợi đối với khoản
nợ đó, ví dụ khoản nợ đối với cộng đồng. Một khoản nợ luôn gắn với các cam kết
với bên đối tác khác. Một quyết định của Ban Giám đốc không nhất thiết phát sinh
nghĩa vụ nợ liên đới tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm, trừ khi quyết định này đã
được thông báo cụ thể và đầy đủ trước ngày kết thúc kỳ kế toán năm cho những đối
tượng sẽ được hưởng quyền lợi.
18. Một sự kiện
không nhất thiết phát sinh nghĩa vụ nợ ngay lập tức mà có thể sẽ phát sinh sau
này do những thay đổi về pháp luật hoặc do hoạt động của doanh nghiệp dẫn đến
nghĩa vụ nợ liên đới. Ví dụ: Khi xảy ra thiệt hại về môi trường có thể sẽ không
phát sinh ra nghĩa vụ nợ để giải quyết các hậu quả gây ra. Tuy nhiên, nguyên
nhân gây ra thiệt hại sẽ trở thành một sự kiện hiện tại khi có một qui định mới
yêu cầu các thiệt hại hiện tại phải được điều chỉnh hoặc khi doanh nghiệp công
khai thừa nhận nghĩa vụ của mình trong việc xử lý các thiệt hại đó như là nghĩa
vụ nợ liên đới.
Sự giảm sút lợi ích kinh tế có thể xảy
ra
19. Điều kiện ghi
nhận một khoản nợ là khoản nợ đó phải là khoản nợ hiện tại và có khả năng làm
giảm sút lợi ích kinh tế do việc thanh toán khoản nợ đó. Theo quy định của chuẩn
mực này, một khoản nợ phải kèm theo sự giảm sút lợi ích kinh tế có khả năng xảy
ra hơn là không xảy ra. Khi không thể xác định được một nghĩa vụ nợ hiện tại,
thì doanh nghiệp phải thuyết minh một khoản nợ tiềm tàng, trừ khi khả năng giảm
sút về lợi ích kinh tế là khó có thể xảy ra theo quy định tại đoạn
81.
20. Khi có nhiều
nghĩa vụ nợ tương tự nhau (Ví dụ các giấy bảo hành sản phẩm hoặc các hợp đồng
giống nhau) thì khả năng giảm sút lợi ích kinh tế do việc thanh toán nghĩa vụ nợ
được xác định thông qua việc xem xét toàn bộ nhóm nghĩa vụ nói chung. Mặc dù
việc giảm sút lợi kinh tế do việc thanh toán từng nghĩa vụ nợ là rất nhỏ, nhưng
hoàn toàn có thể làm giảm sút lợi ích kinh tế do việc thanh toán toàn bộ nhóm
nghĩa vụ đó. Trường hợp này, cần ghi nhận một khoản dự phòng nếu thoả mãn các
điều kiện ghi nhận khác.
Ước tính đáng tin cậy về nghĩa vụ nợ phải
trả
21. Việc sử dụng các
ước tính là một phần quan trọng của việc lập báo cáo tài chính và không làm mất
đi độ tin cậy của báo cáo tài chính. Điều này đặc biệt đúng với các khoản mục dự
phòng mặc dù xét về tính chất các khoản mục dự phòng không chắc chắn bằng các
khoản mục khác trong Bảng cân đối kế toán. Ngoại trừ trường hợp đặc biệt, doanh
nghiệp phải xác định đầy đủ các điều kiện để có thể ước tính nghĩa vụ nợ để ghi
nhận một khoản dự phòng.
22. Trong các trường
hợp không thể ước tính nghĩa vụ nợ một cách đáng tin cậy, thì khoản nợ hiện tại
không được ghi nhận, mà phải được trình bày như một khoản nợ tiềm tàng theo quy
định tại đoạn 81.
Nợ tiềm tàng
23. Doanh nghiệp không được ghi nhận một
khoản nợ tiềm tàng.
24. Khoản nợ tiềm
tàng phải được trình bày theo quy định tại đoạn 81, trừ khi xảy ra giảm sút lợi
ích kinh tế của doanh nghiệp.
25. Khi doanh nghiệp
chịu nghĩa vụ pháp lý chung hoặc riêng rẽ đối với một khoản nợ, thì phần nghĩa
vụ dự tính thuộc về các chủ thể khác được xem như một khoản nợ tiềm tàng. Doanh
nghiệp phải ghi nhận khoản dự phòng cho phần nghĩa vụ có thể xảy ra làm giảm sút
lợi ích kinh tế, trừ khi không đưa ra được cách ước tính đáng tin
cậy.
26. Các khoản nợ
tiềm tàng thường xảy ra không theo dự tính ban đầu. Do đó chúng phải được ước
tính thường xuyên để xác định xem liệu sự giảm sút lợi ích kinh tế có xảy ra hay
không. Nếu sự giảm sút lợi ích kinh tế trong tương lai có thể xảy ra có liên
quan đến một khoản mục trước đây là một khoản nợ tiềm tàng, thì phải ghi nhận
khoản dự phòng đó vào báo cáo tài chính của kỳ kế toán có khả năng thay đổi
ngoại trừ trường hợp không đưa ra được cách ước tính đáng tin
cậy.
Tài sản tiềm tàng
27. Doanh nghiệp không được ghi nhận một tài sản tiềm
tàng.
28. Tài sản tiềm
tàng phát sinh từ các sự kiện không có trong kế hoạch hoặc chưa được dự tính,
dẫn đến khả năng có thể thu được lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp. Ví dụ: một
khoản được bồi thường đang tiến hành các thủ tục pháp lý khi kết quả chưa chắc
chắn.
29. Doanh nghiệp
không được ghi nhận tài sản tiềm tàng trên báo cáo tài chính vì điều này có thể
dẫn đến việc ghi nhận khoản thu nhập có thể không bao giờ thu được. Tuy nhiên,
khi có khoản thu nhập gần như chắc chắn thì tài sản liên quan đến nó không còn
là tài sản tiềm tàng và được ghi nhận vào báo cáo tài chính là hợp
lý.
30. Khi có thể thu
được lợi ích kinh tế trong tương lai thì doanh nghiệp phải trình bày trong báo
cáo tài chính một tài sản tiềm tàng như quy định trong đoạn
84.
31. Tài sản tiềm
tàng phải được đánh giá thường xuyên để đảm bảo là đã được phản ánh một cách hợp
lý trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính. Nếu doanh nghiệp gần như chắc chắn
thu được lợi ích kinh tế, thì tài sản và khoản thu nhập liên quan phải được ghi
nhận trên báo cáo tài chính của kỳ kế toán có khả năng thể xảy ra khoản thu nhập
đó theo quy định tại đoạn 84.
Xác định giá trị
Giá trị ước tính hợp lý
32. Giá trị ghi nhận một khoản dự phòng phải là giá trị được ước tính
hợp lý nhất về khoản tiền sẽ phải chi để thanh toán nghĩa vụ nợ hiện tại tại
ngày kết thúc kỳ kế toán năm.
33. Giá trị ước tính
hợp lý nhất về khoản chi phí để thanh toán nghĩa vụ nợ hiện tại là giá trị mà
doanh nghiệp sẽ phải thanh toán nghĩa vụ nợ hoặc chuyển nhượng cho bên thứ ba
tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm. Thường là không thể bỏ ra chi phí rất cao để
thanh toán hoặc chuyển nhượng nghĩa vụ nợ tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm. Tuy
nhiên, cách ước tính về giá trị mà doanh nghiệp phải suy tính để thanh toán hoặc
chuyển nhượng nghĩa vụ nợ sẽ đưa ra được giá trị ước tính đáng tin cậy nhất về
chi phí sẽ phải dùng để thanh toán nghĩa vụ hiện tại tại ngày kết thúc kỳ kế
toán năm.
34. Cách ước tính về
kết quả và ảnh hưởng tài chính đều được xác định thông qua đánh giá của Ban giám
đốc doanh nghiệp, được bổ sung thông qua kinh nghiệm từ các hoạt động tương tự
và các bản báo cáo của các chuyên gia độc lập. Các căn cứ có thể dựa trên bao
gồm cả các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc kỳ kế toán
năm.
35. Có nhiều phương
pháp đánh giá để ghi nhận giá trị các khoản mục không chắc chắn là một khoản dự
phòng. Khi các khoản dự phòng được đánh giá là có liên quan đến nhiều khoản mục,
thì nghĩa vụ nợ sẽ được tính theo tất cả các kết quả có thể thu được với các xác
suất có thể xảy ra (phương pháp giá trị ước tính). Do đó, khoản dự phòng sẽ phụ
thuộc vào xác suất phát sinh khoản lỗ đã ước tính là bao nhiêu, ví dụ: 60% hay
90%. Nếu các kết quả ước tính đều tương đương nhau và liên tục trong một giới
hạn nhất định và mỗi điểm ở trong giới hạn đó đều có khả năng xảy ra như nhau
thì sẽ chọn điểm ở giữa trong giới hạn đó.
Ví
dụ
Một doanh nghiệp bán
hàng cho khách hàng có kèm giấy bảo hành sửa chữa các hỏng hóc do lỗi sản xuất
được phát hiện trong vòng sáu tháng sau khi mua. Nếu tất cả các sản phẩm bán ra
đều có lỗi hỏng hóc nhỏ, thì tổng chi phí sửa chữa là 1 triệu đồng. Nếu tất cả
các sản phẩm bán ra đều có lỗi hỏng hóc lớn, thì tổng chi phí sửa chữa là 4
triệu đồng. Kinh nghiệm cho thấy trong năm tới, 75% hàng hóa bán ra không bị
hỏng hóc, 20% hàng hóa bán ra sẽ hỏng hóc nhỏ và 5% hàng hóa bán ra sẽ có hỏng
hóc lớn. Theo quy định tại đoạn 20, doanh nghiệp phải đánh giá xác suất xảy ra
cho từng mức chi phí sửa chữa cho toàn bộ các nghĩa vụ bảo
hành.
Giá trị ước tính chi
phí sửa chữa trong trường hợp trên sẽ là: (75% x 0) + (20% x 1 triệu) + (5% x 4
triệu) = 0,4 triệu đồng.
36. Khi đánh giá
từng nghĩa vụ một cách riêng rẽ, mỗi kết quả có nhiều khả năng xảy ra nhất sẽ là
giá trị nợ phải trả ước tính hợp lý nhất. Tuy nhiên, thậm chí trong trường hợp
như thế, doanh nghiệp cũng cần phải xét đến các kết quả khác nữa. Khi các kết
quả khác hoặc là hầu hết lớn hơn hoặc là hầu hết nhỏ hơn kết quả có nhiều khả
năng xảy ra nhất, thì giá trị ước tính đáng tin cậy nhất sẽ là giá trị cao hơn
hoặc thấp hơn đó. Ví dụ, doanh nghiệp buộc phải sửa chữa một hỏng hóc nghiêm
trọng trong một thiết bị lớn đã bán cho khách hàng, và kết quả có khả năng xảy
ra nhất là sẽ tốn 1 triệu đồng để sửa chữa thành công lần đầu, nhưng nếu có khả
năng phải sửa chữa các lần tiếp theo thì phải đưa ra một khoản dự phòng có giá
trị lớn hơn.
37. Khoản dự phòng
phải được ghi nhận trước thuế, vì các ảnh hưởng về thuế của khoản dự phòng và
những thay đổi trong các kết quả đó đã được quy định trong Chuẩn mực kế toán số
17 “Thuế thu nhập doanh nghiệp”.
Rủi ro và các yếu tố không chắc chắn
38. Rủi ro và các yếu tố không chắc chắn tồn tại xung quanh các sự kiện
và các trường hợp phải được xem xét khi xác định giá trị ước tính hợp lý nhất
cho một khoản dự phòng.
39. Rủi ro thể hiện
sự giảm sút kết quả. Việc điều chỉnh rủi ro có thể làm tăng giá trị các khoản nợ
đã được ghi nhận. Doanh nghiệp cần phải thận trọng khi đưa ra những đánh giá
trong các điều kiện không chắc chắn để không làm sai lệch tăng thu nhập hay tài
sản và cũng không làm sai lệch giảm chi phí và các khoản nợ. Tuy nhiên, tình
trạng không chắc chắn không có nghĩa là tạo ra các khoản dự phòng quá mức hoặc
khai khống các khoản nợ một cách cố ý. Ví dụ: Nếu các khoản chi phí dự tính cho
một rủi ro nào đó được ước tính trên cơ sở thận trọng, thì không nên chủ quan
xem kết quả đó là có khả năng xảy ra hơn các trường hợp thực tế khác. Doanh
nghiệp cần phải chú ý để tránh các bước đánh giá trùng lặp đối với rủi ro và sự
không chắc chắn dẫn đến làm tăng các khoản dự phòng.
40. Việc thuyết minh
yếu tố không chắc chắn đối với giá trị của các khoản chi trả được quy định tại
đoạn 80 (b).
Giá trị hiện tại
41. Nếu ảnh hưởng về giá trị thời gian của tiền là trọng yếu, thì giá
trị của một khoản dự phòng cần được xác định là giá trị hiện tại của khoản chi
phí dự tính để thanh toán nghĩa vụ nợ.
42. Phụ thuộc vào
giá trị thời gian của tiền, các khoản dự phòng liên quan đến các luồng tiền ra
phát sinh ngay sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm có giá trị thực cao hơn các
khoản dự phòng có cùng giá trị liên quan đến các luồng tiền ra phát sinh muộn
hơn. Do đó các khoản dự phòng đều phải được chiết khấu khi giá trị thời gian của
tiền có ảnh hưởng trọng yếu.
43. Tỷ lệ chiết khấu phải là tỷ lệ trước thuế và phản ảnh rõ những ước
tính trên thị trường hiện tại về giá trị thời gian của tiền và rủi ro cụ thể của
khoản nợ đó. Tỷ lệ chiết khấu không được phản ánh rủi ro đã tính đến của giá trị
ước tính luồng tiền trong tương lai .
Các sự kiện xảy ra trong tương lai
44. Những sự kiện xảy ra trong tương lai có thể ảnh hưởng đến giá trị
đã ước tính để thanh toán nghĩa vụ nợ thì phải được phản ánh vào giá trị của
khoản dự phòng khi có đủ dấu hiệucho thấy các sự kiện đó sẽ xảy
ra.
45. Những sự
kiện dự tính sẽ xảy ra trong tương lai có thể rất quan trọng khi đánh giá các
khoản dự phòng. Ví dụ, doanh nghiệp có thể cho rằng chi phí thanh lý tài sản vào
cuối thời gian sử dụng của tài sản sẽ giảm do những thay đổi về công nghệ trong
tương lai. Giá trị được ghi nhận đã phản ánh cách ước tính hợp lý của các nhà
nghiên cứu có trình độ kỹ thuật và khách quan có tính đến các bằng chứng về công
nghệ tại thời điểm thanh lý. Do vậy, việc giảm giá trị dự phòng bằng một khoản
tương đương với chi phí tiết kiệm được là hợp lý khi các khoản chi phí này được
cắt giảm do kinh nghiệm đã thu được khi áp dụng công nghệ hiện có của hoạt động
thanh lý có nhiều phức tạp hoặc có qui mô lớn hơn so với hoạt động đã tiến hành
trước đây. Tuy nhiên, doanh nghiệp khó có thể đoán trước được sự phát triển của
kỹ thuật công nghệ mới áp dụng cho việc thanh lý tài sản, trừ khi có đầy đủ bằng
chứng khách quan.
46. Khi đánh
giá nghĩa vụ nợ phải xét đến ảnh hưởng có thể xảy ra của các quy định mới nếu có
đủ bằng chứng khách quan cho thấy qui định này chắc chắn được thông qua. Do có
nhiều trường hợp phát sinh nên không thể xác định được từng sự kiện riêng biệt
để đưa ra đầy đủ bằng chứng khách quan cho mọi trường hợp. Bằng chứng được yêu
cầu gồm cả qui định cần phải áp dụng và xem xét qui định này có thông qua chắc
chắn và được đem ra áp dụng vào thời điểm thích hợp hay không. Trong một số
trường hợp sẽ không đưa ra được bằng chứng khách quan, đầy đủ cho đến khi qui
định mới được thông qua.
Thanh lý tài sản dự tính
47. Lãi từ hoạt động thanh lý tài sản dự tính không được xét đến khi
xác định giá trị của khoản dự
phòng.
48. Không được
tính các khoản lãi từ hoạt động thanh lý tài sản khi xác định giá trị khoản dự
phòng, ngay cả khi hoạt động thanh lý dự tính gắn liền với sự kiện làm phát sinh
khoản dự phòng đó. Thay vào đó, doanh nghiệp phải ghi nhận các khoản lãi từ hoạt
động thanh lý tài sản đã dự tính tại thời điểm quy định trong các Chuẩn mực kế
toán liên quan.
Các khoản bồi
hoàn
49. Khi một phần hay toàn bộ chi phí để thanh toán một khoản dự phòng
dự tính được bên khác bồi hoàn thì khoản bồi hoàn này chỉ được ghi nhận khi
doanh nghiệp chắc chắn sẽ nhận được khoản bồi hoàn đó. Khoản bồi hoàn này phải
được ghi nhận như một tài sản riêng biệt. Giá trị ghi nhận của khoản bồi hoàn
không được vượt quá giá trị khoản dự phòng.
50. Trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, chi phí liên quan đến
khoản dự phòng có thể được trình bày theo giá trị sau khi trừ giá trị khoản bồi
hoàn được ghi nhận.
51. Trong một
số trường hợp, doanh nghiệp có thể tìm kiếm một bên thứ ba để thanh toán một
phần hay toàn bộ chi phí cho khoản dự phòng (ví dụ, thông qua các hợp đồng bảo
hiểm, các điều khoản bồi thường hoặc các giấy bảo hành của nhà cung cấp). Bên
thứ ba có thể thanh toán trực tiếp hoặc hoàn trả lại các khoản doanh nghiệp đã
thanh toán.
52. Hầu hết
các trường hợp, doanh nghiệp đều phải chịu và phải thanh toán toàn bộ các nghĩa
vụ nợ nếu bên thứ ba không có khả năng bồi hoàn do bất kỳ nguyên nhân nào.
Trường hợp này, phải ghi nhận khoản dự phòng cho toàn bộ giá trị của khoản nợ,
và phải ghi nhận khoản bồi hoàn đã dự tính là tài sản khi chắc chắn sẽ nhận được
khoản bồi hoàn đó nếu doanh nghiệp thanh toán khoản nợ.
53. Có trường
hợp, doanh nghiệp không phải chịu các khoản chi phí chưa rõ ràng nếu bên thứ ba
không thực hiện thanh toán. Trường hợp doanh nghiệp không phải chịu các khoản
chi phí thì các khoản chi phí này không được đưa vào khoản dự
phòng.
54. Theo quy
định trong đoạn 25, một khoản nợ khi doanh nghiệp phải chịu nghĩa vụ pháp lý
chung hoặc riêng sẽ được ghi nhận là nợ tiềm tàng trong phạm vi dự tính nghĩa vụ
sẽ được bên thứ ba thanh toán.
Thay đổi các khoản dự
phòng
55. Các khoản dự phòng phải được xem xét lại và điều chỉnh tại ngày
kết thúc kỳ kế toán năm để phản ánh ước tính hợp lý nhất ở thời điểm hiện tại.
Nếu doanh nghiệp chắc chắn không phải chịu sự giảm sút về lợi ích kinh tế do
không phải chi trả nghĩa vụ nợ thì khoản dự phòng đó phải được hoàn
nhập.
56. Khi sử
dụng phương pháp chiết khấu, giá trị ghi sổ của một khoản dự phòng tăng lên
trong mỗi kỳ kế toán năm để phản ánh ảnh hưởng của yếu tố thời gian. Phần giá
trị tăng lên này phải được ghi nhận là chi phí đi vay.
Sử dụng các khoản dự
phòng
57. Chỉ nên sử dụng một khoản dự phòng cho những chi phí mà khoản dự
phòng đó đã được lập từ ban đầu.
58. Chỉ những
khoản chi phí liên quan đến khoản dự phòng đã được lập ban đầu mới được bù đắp
bằng khoản dự phòng đó. Việc sử dụng khoản dự phòng cho các chi phí không liên quan đến khoản dự phòng đó hoặc
cho các chi phí liên quan đến khoản dự phòng được lập cho mục đích khác có thể
không thể hiện ảnh hưởng của hai sự kiện khác nhau.
Áp dụng nguyên tắc ghi nhận và xác
định giá trị
Các khoản lỗ hoạt động trong tương lai
59. Doanh nghiệp không được ghi nhận khoản dự phòng cho các khoản lỗ
hoạt động trong tương lai.
60. Khoản lỗ
hoạt động trong tương lai là khoản không thoả mãn định nghĩa về một khoản nợ
phải trả quy định trong đoạn 07 và điều kiện ghi nhận các khoản dự phòng ở đoạn
11.
61. Mỗi ước
tính về khoản lỗ hoạt động xảy ra trong tương lai đều là dấu hiệu về sự tổn thất
của một số tài sản dùng trong kinh doanh. Doanh nghiệp phải tiến hành kiểm tra
việc tổn thất đối với những tài sản này.
Các hợp đồng có rủi ro lớn
62. Nếu doanh nghiệp có hợp đồng có rủi ro lớn, thì nghĩa vụ nợ hiện
tại theo hợp đồng phải được ghi nhận và đánh giá như một khoản dự
phòng.
63. Nhiều hợp
đồng (Ví dụ: Đơn mua hàng thường xuyên) có thể bị huỷ bỏ mà không phải thanh
toán bồi thường, tức là không phát sinh nghĩa vụ nợ. Các hợp đồng có qui định rõ
quyền và nghĩa vụ đối với từng bên tham gia ký kết hợp đồng thì khi phát sinh sự
kiện rủi ro, hợp đồng đó sẽ thuộc phạm vi chi phối của chuẩn mực này và khoản nợ
phải trả phát sinh được ghi nhận. Những hợp đồng thông thường mà không có rủi ro
lớn thì không thuộc phạm vi áp dụng của chuẩn mực này.
64. Chuẩn mực
này qui định hợp đồng có rủi ro lớn là hợp đồng mà trong đó, chi phí bắt buộc
phải trả cho các nghĩa vụ liên quan đến hợp đồng vượt quá lợi ích kinh tế dự
tính thu được từ hợp đồng đó. Các chi phí bắt buộc phải trả theo điều khoản của
hợp đồng phản ánh chi phí thấp nhất nếu từ bỏ hợp đồng. Mức chi phí đó sẽ thấp
hơn mức chi phí để thực hiện hợp đồng, kể cả các khoản bồi thường hoặc đền bù
phát sinh do việc không thực hiện được hợp đồng.
65. Trước khi
lập một khoản dự phòng riêng biệt cho một hợp đồng có rủi ro lớn, doanh nghiệp
phải ghi nhận bất kỳ sự giảm sút giá trị nào của tài sản có liên quan đến hợp
đồng đó.
Tái cơ cấu doanh nghiệp
66. Ví dụ về
những sự kiện nằm trong định nghĩa về "tái cơ cấu doanh
nghiệp":
a) Bán hoặc
chấm dứt một dây chuyền sản xuất sản phẩm;
b) Đóng cửa cơ
sở kinh doanh ở một địa phương, một quốc gia khác hoặc chuyển đổi hoạt động kinh
doanh từ địa phương này, quốc gia này sang một địa phương hoặc một quốc gia
khác;
c) Thay đổi cơ
cấu bộ máy quản lý, ví dụ loại bỏ một cấp quản lý;
d) Hoạt động
tái cơ cấu cơ bản sẽ gây ra tác động lớn đến bản chất và mục tiêu hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
67. Khoản dự
phòng cho chi phí tái cơ cấu doanh nghiệp chỉ được ghi nhận khi các điều kiện
chung đối với khoản dự phòng như quy định trong đoạn 11 được thoả mãn. Các đoạn
69 - 78 chỉ rõ làm thế nào để áp dụng các điều kiện chung cho hoạt động tái cơ
cấu doanh nghiệp.
68. Khi tiến hành tái cơ cấu doanh nghiệp thì nghĩa vụ liên đới chỉ
phát sinh khi:
a) Có kế hoạch chính thức, cụ
thể để xác định rõ việc tái cơ cấu doanh nghiệp, trong đó phải thoả mãn ít nhất
5 nội dung sau:
(i) Thay đổi toàn bộ hoặc
một phần hoạt động kinh doanh;
(ii) Các vị trí quan trọng
bị ảnh hưởng;
(iii) Vị trí, nhiệm vụ và số
lượng nhân viên ước tính sẽ được nhận bồi thường khi họ buộc phải thôi
việc;
(iv) Các khoản chi phí sẽ
phải chi trả; và
(v) Khi kế hoạch được thực
hiện.
b) Đưa danh sách chủ thể chắc
chắn bị ảnh hưởng ; thực hiện kế hoạch tái cơ cấu hoặc thông báo các vấn đề quan
trọng đến những chủ thể bị ảnh hưởng của việc tái cơ
cấu.
69. Bằng chứng
cho thấy doanh nghiệp đã tiến hành kế hoạch tái cơ cấu.Ví dụ: Tháo dỡ nhà xưởng,
bán tài sản hoặc thông báo công khai về những vấn đề quan trọng của kế hoạch.
Thông báo công khai về một kế hoạch tái cơ cấu cụ thể sẽ dẫn đến một nghĩa vụ nợ
pháp lý khi kế hoạch đó được thực hiện theo dự tính và đầy đủ chi tiết (tức là
phải chỉ rõ những vấn đề quan trọng của kế hoạch) từ đó đưa ra dự tính chắc chắn
về những chủ thể có liên quan như khách hàng, các nhà cung cấp, các nhân viên
(hoặc những người đại diện cho họ) để doanh nghiệp có thể tiến hành tái cơ
cấu.
70. Để kế
hoạch có đủ chi tiết liên quan đến nghĩa vụ nợ khi thông báo đến những đối tượng
bị ảnh hưởng, thì phải lập và thực hiện kế hoạch càng sớm càng tốt, phải hoàn
tất kế hoạch trong khoảng thời gian dự tính. Nếu doanh nghiệp dự tính vẫn còn
một khoảng thời gian dài trước khi tiến hành tái cơ cấu hoặc quá trình tái cơ
cấu phải mất một thời gian dài bất hợp lý, thì không thể chắc chắn là kế hoạch
sẽ được thực hiện đúng thời gian cho phép.
71. Nếu quyết
định tái cơ cấu của Ban Giám đốc đưa ra trước ngày kết thúc kỳ kế toán năm thì
không dẫn đến nghĩa vụ nợ liên đới tại ngày đó, trừ khi trước ngày kết thúc kỳ
kế toán năm doanh nghiệp đã:
a) Bắt đầu
thực hiện kế hoạch tái cơ cấu; hoặc
b) Thông báo
những vấn đề quan trọng của kế hoạch tái cơ cấu cho những đối tượng bị ảnh hưởng
theo một cách cụ thể, đầy đủ để họ có được dự tính chắc chắn về việc doanh
nghiệp sẽ tiến hành tái cơ cấu.
Nếu doanh
nghiệp bắt đầu thực hiện kế hoạch tái cơ cấu, hoặc thông báo những vấn đề quan
trọng của kế hoạch đó tới những đối tượng bị ảnh hưởng sau ngày kết thúc kỳ kế
toán năm thì việc trình bày trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính được thực
hiện theo quy định tại Chuẩn mực kế toán số 23 “Các sự kiện phát sinh sau ngày
kết thúc kỳ kế toán năm”. Nếu việc tái cơ cấu là trọng yếu mà không được trình
bày trong báo cáo tài chính thì có thể ảnh hưởng đến việc đưa ra quyết định kinh
tế của người sử dụng báo cáo tài chính.
72. Nghĩa vụ
nợ liên đới không chỉ được tạo ra từ quyết định của Ban Giám đốc. Nghĩa vụ nợ
liên đới có thể là kết quả của các sự kiện đã xảy ra: Ví dụ, thoả thuận với đại
diện của người làm công về các khoản thanh toán khi họ thôi việc, hoặc thoả
thuận với người mua khi nhượng bán một bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp. Một
khi đã đạt được sự chấp thuận có thể đã được kết luận chỉ chờ chấp thuận của Hội
đồng quản trị và được thông báo đến chủ thể đối tác thì lúc đó doanh nghiệp có
nghĩa vụ thực hiện tái cơ cấu nếu thoả mãn các điều kiện quy định tại đoạn
68.
73. Không có nghĩa vụ nợ phát sinh cho tới khi doanh nghiệp ký cam
kết nhượng bán, tức là khi doanh nghiệp có hợp đồng nhượng bán hiện
tại.
74. Khi doanh
nghiệp quyết định nhượng bán một bộ phận kinh doanh và thông báo công khai quyết định đó, thì vẫn
chưa được coi là cam kết cho đến khi xác định được người mua và hợp đồng nhượng
bán được ký kết. Từ khi quyết định đến khi ký kết hợp đồng nhượng bán ràng buộc,
doanh nghiệp vẫn có thể thực hiện các hoạt động khác nếu không tìm được người
mua với điều khoản phù hợp. Khi công việc nhượng bán một bộ phận kinh doanh chỉ
là một phần của việc tái cơ cấu, thì tài sản hoạt động phải được xem xét lại xem
có tổn thất không và nghĩa vụ nợ liên đới có thể phát sinh từ các phần khác của
việc tái cơ cấu trước khi một hợp đồng hiện tại được ký
kết.
75. Một khoản dự phòng cho việc tái cơ cấu chỉ được dự tính cho những
chi phí trực tiếp phát sinh từ hoạt động tái cơ cấu, đó là những chi phí thoả
mãn cả hai điều kiện:
a) Cần phải có cho hoạt động tái cơ cấu;
và
b) Không liên quan đến hoạt động thường xuyên của doanh
nghiệp.
76. Một khoản
dự phòng cho việc tái cơ cấu không bao gồm các chi phí
như:
a) Đào tạo lại
hoặc thuyên chuyển nhân viên hiện có;
b) Tiếp thị;
hoặc
c) Đầu tư vào
những hệ thống mới và các mạng lưới phân phối.
Những chi phí
này liên quan đến hoạt động trong tương lai của doanh nghiệp và không phải là
các khoản nợ phải trả cho việc tái cơ cấu tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm. Các
chi phí này phải được ghi nhận theo nguyên tắc ghi nhận các chi phí không liên
quan tới việc tái cơ cấu.
77. Những
khoản lỗ từ hoạt động kinh doanh trong tương lai có thể xác định được tính đến
ngày tái cơ cấu thì không được bao gồm trong khoản dự phòng, trừ khi chúng liên
quan đến một hợp đồng có rủi ro lớn như đã quy định trong đoạn
07.
78. Lãi dự
tính thu được từ hoạt động thanh lý tài sản, ngay cả khi việc thanh lý tài sản
được xem như một phần của hoạt động tái cơ cấu, không được xét đến khi xác định
mức dự phòng cho việc tái cơ cấu, như đã quy định trong đoạn
47.
Trình bày báo cáo tài
chính
79. Doanh nghiệp phải trình bày trong báo cáo tài chính từng loại dự
phòng theo các khoản mục:
a) Số dư đầu kỳ và cuối kỳ;
b) Số dự phòng tăng do các khoản dự phòng trích lập bổ sung trong kỳ,
kể cả việc tăng các khoản dự phòng hiện có;
c) Số dự phòng giảm trong kỳ do phát sinh các khoản chi phí liên quan
đến khoản dự phòng đó đã được lập từ ban đầu;
d) Số dự phòng không sử dụng đến được ghi giảm (hoàn nhập) trong kỳ;
và
e) Số dự phòng tăng trong kỳ do giá trị hiện tại của khoản dự phòng
tăng lên theo thời gian và do ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ lệ chiết khấu dòng
tiền.
Doanh nghiệp không phải trình bày thông tin so sánh về các khoản dự
phòng.
80. Đối với mỗi loại dự phòng có giá trị trọng yếu, doanh nghiệp phải
trình bày các thông tin sau:
a) Tóm tắt bản chất của nghĩa vụ nợ và thời gian chi trả dự
tính;
b) Dấu hiệu cho thấy có sự không chắc chắn về giá trị hoặc thời gian
của các khoản chi trả. Khi cần đưa ra thông tin đầy đủ thì doanh nghiệp phải
trình bày những giả định chính liên quan đến các sự kiện xảy ra trong tương lai,
như đã quy định trong đoạn 44; và
c) Giá trị của khoản bồi hoàn dự tính nhận được nếu giá trị của tài
sản đã được ghi nhận liên quan đến khoản bồi hoàn dự tính
đó.
81. Trừ khi khó xảy ra khả năng phải chi trả, doanh nghiệp phải trình
bày tóm tắt bản chất của khoản nợ tiềm tàng tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm
cùng với các thông tin sau:
a) Ước tính về ảnh hưởng tài chính của khoản nợ tiềm tàng này theo
quy định ở các đoạn 32 - 48;
b) Dấu hiệu không chắc chắn liên quan đến giá trị hoặc thời gian của
các khoản chi trả có thể xảy ra; và
c) Khả năng nhận được các khoản bồi
hoàn.
82. Khi xác
định các khoản dự phòng hoặc các khoản nợ tiềm tàng có thể tập hợp thành một
loại để trình bày báo cáo tài chính thì cần phải cân nhắc xem liệu bản chất của
các khoản mục đó có tương đồng với nhau đủ để trình bày chung trong một khoản
mục trên báo cáo mà vẫn thoả mãn quy định ở các đoạn 80 (a), (b) và 81 (a), (b).
Ví dụ, hoàn toàn có thể nhóm chung các khoản dự phòng liên quan đến việc bảo
hành các sản phẩm khác nhau, nhưng lại không thể nhóm chung dự phòng bảo hành
thông thường và các khoản phải trả liên quan đến vụ kiện.
83. Khi một
khoản dự phòng và một khoản nợ tiềm tàng phát sinh từ cùng một tình huống thì
doanh nghiệp phải trình bày theo quy định ở đoạn 79 - 81 đồng thời chỉ rõ mối
liên hệ giữa khoản dự phòng và nợ tiềm tàng đó.
84. Khi có thể thu được một số lợi ích kinh tế thì doanh nghiệp phải
trình bày tóm tắt về bản chất của các tài sản tiềm tàng tại ngày kết thúc kỳ kế
toán năm, và khi có thể, trình bày ước tính về ảnh hưởng tài chính của chúng
theo các nguyên tắc đã qui định tại đoạn 32 - 48 đối với các khoản dự phòng
.
85. Việc trình
bày các tài sản tiềm tàng trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính phải tránh đưa
ra các dấu hiệu sai lệch về khả năng có thể xảy ra khoản thu nhập phát
sinh.
86. Nếu không thể trình bày được thông tin nào quy định trong đoạn 81
và 84, doanh nghiệp phải nêu rõ trong Bản thuyết minh báo cáo tài
chính.
87. Trong một số trường hợp, việc trình bày một số hay toàn bộ các
thông tin như quy định trong các đoạn 79 - 84 có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến vị thế của doanh nghiệp trong việc tranh chấp với các chủ thể khác liên quan
đến nội dung của khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng thì doanh nghiệp phải
trình bày bản chất chung của vấn đề đang tranh chấp và lý do không trình bày
những thông tin này.