QĐ 12/2005/QĐ-BTC, 15/02/2005 ban hành CM Kế toán đợt 4
QĐ 12/2005/QĐ-BTC, 15/02/2005 CỦA BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH VỀ VIỆC BAN HÀNH VÀ CÔNG BỐ SÁU (06) CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM (ĐỢT 4)
BỘ TÀI
CHÍNH ---------------- |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM |
Số:
12/2005/QĐ-BTC |
Hà Nội, ngày 15 tháng 02
năm 2005 |
QUYẾT ĐỊNH
CỦA BỘ
TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH VỀ VIỆC BAN HÀNH VÀ CÔNG BỐ SÁU (06) CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT
NAM (ĐỢT 4)
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI
CHÍNH
Căn cứ Luật Kế toán số
03/2003/QH11 ngày 17/6/2003;
Căn cứ Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày
05/11/2002 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của bộ, cơ quan ngang bộ;
Căn cứ Nghị định số 77/2003/NĐ-CP ngày
01/07/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Bộ Tài chính;
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, tài
chính, nâng cao chất lượng thông tin kế toán cung cấp trong nền kinh tế quốc dân
và để kiểm tra, kiểm soát chất lượng công tác kế toán;
Theo đề nghị của Vụ
trưởng Vụ Chế độ kế toán và kiểm toán và Chánh Văn phòng Bộ Tài
chính,
Điều
1: Ban
hành sáu (06) chuẩn mực kế toán Việt Nam (đợt 4) có số hiệu và tên gọi sau
đây:
1- Chuẩn mực số 17 – Thuế
thu nhập doanh nghiệp;
2- Chuẩn mực số 22 –
Trình bày bổ sung báo cáo tài chính của
các ngân hàng và tổ chức tài chính tương
tự;
3- Chuẩn mực số 23 – Các
sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm;
4- Chuẩn mực số 27 – Báo
cáo tài chính giữa niên độ;
5- Chuẩn mực số 28 – Báo
cáo bộ phận;
6- Chuẩn mực số 29 – Thay
đổi chính sách kế toán, ước tính kế toán
và các sai
sót.
Điều
2: Sáu
(06) Chuẩn mực kế toán Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định này được áp dụng
đối với tất cả các doanh nghiệp thuộc các ngành, các thành phần kinh tế trong cả
nước.
Điều
3: Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày
đăng công báo. Các chế độ kế toán cụ thể phải căn cứ vào sáu chuẩn mực kế toán
được ban hành kèm theo Quyết định này để sửa đổi, bổ sung cho phù
hợp.
Điều 4: Vụ trưởng Vụ Chế độ kế
toán và kiểm toán, Chánh Văn phòng Bộ và Thủ trưởng các đơn vị liên quan thuộc
Bộ Tài chính chịu trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra và thi hành Quyết định
này.
|
KT.BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI
CHÍNH |
CHUẨN MỰC SỐ 17
THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP
(Ban hành và công bố theo Quyết định số 12/2005/QĐ-BTC ngày 15 tháng 02
năm 2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính)
QUY ĐỊNH CHUNG
01. Mục đích của chuẩn mực
này là quy định và hướng dẫn các nguyên tắc, phương pháp kế toán thuế thu nhập
doanh nghiệp. Kế toán thuế thu nhập doanh nghiệp là kế toán những nghiệp vụ do
ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm hiện hành và trong tương lai
của:
Việc thu hồi hoặc thanh
toán trong tương lai giá trị ghi sổ của các khoản mục tài sản hoặc nợ phải trả
đã được ghi nhận trong Bảng cân đối kế toán của doanh
nghiệp;
Các giao dịch và sự kiện
khác trong năm hiện tại đã được ghi nhận trong báo cáo kết quả kinh
doanh.
Về nguyên tắc, khi ghi
nhận một tài sản hay nợ phải trả trong báo cáo tài chính thì doanh nghiệp phải
dự tính khoản thu hồi hay thanh toán giá trị ghi sổ của tài sản hay khoản nợ
phải trả đó. Khoản thu hồi hay thanh toán dự tính thường làm cho số thuế thu
nhập doanh nghiệp phải trả trong tương lai lớn hơn hoặc nhỏ hơn so với số thuế
thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong năm hiện hành mặc dù khoản thu hồi hoặc
thanh toán này không có ảnh hưởng đến tổng số thuế thu nhập doanh nghiệp. Chuẩn
mực này yêu cầu doanh nghiệp phải ghi nhận khoản thuế thu nhập hoãn lại phải trả
hoặc tài sản thuế thu nhập hoãn lại, ngoại trừ một số trường hợp nhất
định.
Chuẩn mực này yêu cầu doanh nghiệp phải kế toán các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh do ảnh hưởng về thuế thu nhập doanh nghiệp của các giao dịch và các sự
kiện theo cùng phương pháp hạch toán cho chính các giao dịch và các sự kiện đó.
Nếu các giao dịch và các sự kiện được ghi nhận trong Báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh thì tất cả các nghiệp vụ phát sinh do ảnh hưởng của thuế thu nhập
doanh nghiệp có liên quan cũng được ghi nhận vào Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh. Nếu các giao dịch và các sự kiện được ghi nhận trực tiếp vào vốn chủ sở
hữu thì tất cả các nghiệp vụ phát sinh do ảnh hưởng thuế thu nhập doanh nghiệp
có liên quan cũng được ghi nhận trực tiếp vào vốn chủ sở hữu.
Chuẩn mực này còn đề cập đến việc ghi nhận tài sản thuế thu nhập hoãn
lại phát sinh từ các khoản lỗ tính thuế chưa sử dụng hoặc từ các ưu đãi về thuế
thu nhập doanh nghiệp chưa sử dụng; việc trình bày thuế thu nhập doanh nghiệp
trong báo cáo tài chính và việc giải trình các thông tin liên quan tới thuế thu
nhập doanh nghiệp.
02. Chuẩn mực này áp dụng để
kế toán thuế thu nhập doanh nghiệp
Thuế thu nhập doanh nghiệp bao gồm toàn bộ số thuế thu nhập tính trên
thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp, kể cả các khoản thu nhập nhận được từ
hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ tại nước ngoài mà Việt Nam chưa
ký Hiệp định về tránh đánh thuế hai lần. Thuế thu nhập doanh nghiệp bao gồm cả
các loại thuế liên quan khác được khấu trừ tại nguồn đối với các tổ chức, cá
nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam không có cơ sở thường trú tại Việt Nam
được thanh toán bởi công ty liên doanh, liên kết hay công ty con tính trên khoản
phân phối cổ tức, lợi nhuận (nếu có); hoặc thanh toán dịch vụ cung cấp cho đối
tác cung cấp dịch vụ nước ngoài theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh
nghiệp hiện hành.
03. Các thuật ngữ trong
chuẩn mực này được hiểu như sau:
Lợi nhuận kế toán: Là lợi nhuận hoặc lỗ của một kỳ, trước khi trừ thuế thu nhập doanh
nghiệp, được xác định theo quy định của chuẩn mực kế toán và chế độ kế
toán.
Thu nhập chịu thuế: Là thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp của một kỳ, được xác định
theo qui định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành và là cơ sở để tính
thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp (hoặc thu hồi được).
Chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp (hoặc thu nhập thuế thu nhập doanh
nghiệp): Là tổng chi phí thuế thu nhập hiện hành và chi phí thuế thu nhập hoãn
lại (hoặc thu nhập thuế thu nhập hiện hành và thu nhập thuế thu nhập hoãn lại)
khi xác định lợi nhuận hoặc lỗ của một kỳ.
Thuế thu nhập hiện hành: Là số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp (hoặc thu hồi được) tính trên
thu nhập chịu thuế và thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp của năm hiện
hành.
Thuế thu nhập hoãn lại phải trả:
Là thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ phải nộp trong tương lai tính trên các
khoản chênh lệch tạm thời chịu thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm hiện hành.
Tài sản thuế thu nhập hoãn lại:
Là thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ được hoàn lại trong tương lai tính trên
các khoản:
Chênh lệch tạm thời được khấu trừ;
Giá trị được khấu trừ chuyển sang các năm sau của các khoản lỗ tính thuế
chưa sử dụng; và
Giá trị được khấu trừ chuyển sang các năm sau của các khoản ưu đãi thuế
chưa sử dụng.
Chênh lệch tạm
thời: Là khoản chênh lệch giữa giá trị ghi sổ của các khoản mục tài sản hay
nợ phải trả trong Bảng Cân đối kế toán và cơ sở tính thuế thu nhập của các khoản
mục này. Chênh lệch tạm thời có thể là:
Chênh lệch tạm thời phải chịu thuế thu nhập doanh
nghiệp: Là các khoản chênh lệch tạm thời làm phát sinh thu nhập chịu thuế khi
xác định thu nhập chịu thuế thu nhập
doanh nghiệp trong tương lai khi mà giá trị ghi sổ của các khoản mục tài sản
hoặc nợ phải trả liên quan được thu hồi hay được thanh toán;
hoặc
Chênh lệch tạm thời được khấu
trừ: Là các khoản chênh lệch tạm thời làm phát sinh các khoản được khấu trừ
khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp trong tương lai khi mà giá
trị ghi sổ của các khoản mục tài sản hoặc nợ phải trả liên quan được thu hồi hay
được thanh toán.
Cơ sở tính thuế thu nhập của một tài sản hay
nợ phải trả: Là giá trị tính cho tài sản hoặc nợ phải trả cho mục đích xác định thuế
thu nhập doanh nghiệp.
Chi phí thuế thu nhập doanh
nghiệp bao gồm chi phí thuế thu nhập hiện hành và chi phí thuế thu nhập hoãn
lại. Thu nhập thuế thu nhập doanh
nghiệp bao gồm thu nhập thuế thu nhập hiện hành và thu nhập thuế thu nhập
hoãn lại.
Cơ sở tính thuế thu nhập doanh nghiệp
04. Cơ sở tính thuế thu nhập
của một tài sản: Là giá trị sẽ được khấu trừ cho mục đích thuế thu nhập, được trừ khỏi
các lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp sẽ nhận được và phải chịu thuế thu nhập khi
giá trị ghi sổ của tài sản đó được thu hồi. Nếu những lợi ích kinh tế này khi
nhận được mà không phải chịu thuế thu nhập thì cơ sở tính thuế thu nhập của tài
sản đó bằng giá trị ghi sổ của nó.
Ví dụ: (1) Một TSCĐ có nguyên giá là
100: đã khấu hao luỹ kế là 30, trị giá còn lại của nó sẽ được khấu trừ trong
tương lai dưới hình thức khấu hao hoặc giảm trừ khi thanh lý. Doanh thu có được
từ việc sử dụng TSCĐ phải chịu thuế thu nhập và lãi thu từ thanh lý TSCĐ cũng
phải chịu thuế thu nhập, lỗ do thanh lý TSCĐ sẽ được giảm trừ cho mục đích thuế
thu nhập. Cơ sở tính thuế thu nhập của TSCĐ này là 70. (2) Khoản phải thu thương mại có
giá trị ghi sổ là 100. Doanh thu tương ứng của khoản phải thu thương mại đã được
tính vào lợi nhuận tính thuế thu nhập (lỗ tính thuế). Cơ sở tính thuế thu nhập
của khoản phải thu thương mại này là 100. (3) Một khoản cổ tức phải thu từ
một công ty con có giá trị ghi sổ là 100. Khoản cổ tức này không phải chịu thuế
thu nhập doanh nghiệp. Về thực chất, toàn bộ giá trị ghi sổ của tài sản này có
thể được giảm trừ khỏi các lợi ích kinh tế. Do vậy, cơ sở tính thuế thu nhập của
cổ tức phải thu là 100. Theo ví dụ này, ở đây
không có chênh lệch tạm thời phải chịu thuế thu nhập. Có thể phân tích theo cách
khác như sau: Khoản cổ tức phải thu này có cơ sở tính thuế thu nhập là không (0)
và thuế suất thuế thu nhập là 0% được áp dụng cho khoản chênh lệch tạm thời phải
chịu thuế thu nhập phát sinh là 100. Theo cả hai cách nói trên thì đều không có
thuế thu nhập hoãn lại phải trả. (4) Một khoản cho vay phải thu có giá trị ghi sổ là 100. Việc thu hồi
khoản vay này không có ảnh hưởng đến thuế thu nhập. Cơ sở tính thuế thu nhập của
khoản cho vay phải thu này là
100. |
05. Cơ sở tính thuế thu nhập
của một khoản nợ phải trả: Là giá trị ghi sổ của nó trừ đi (-) giá trị sẽ được khấu trừ cho mục
đích thuế thu nhập của khoản nợ phải trả đó trong các kỳ tương lai. Trường hợp
doanh thu nhận trước, cơ sở tính thuế của khoản nợ phải trả phát sinh là giá trị
ghi sổ của nó, trừ đi phần giá trị của doanh thu đó sẽ được ghi nhận nhưng không
phải chịu thuế thu nhập trong tương lai.
Ví dụ: (1) Nợ phải trả ngắn hạn có khoản
mục “chi phí phải trả” về chi phí trích trước lương nghỉ phép với giá trị ghi sổ
là 100. Chi phí phải trả tương ứng được khấu trừ cho mục đích tính thuế thu nhập
trên cơ sở thực chi. Cơ sở tính thuế thu nhập của khoản mục nợ phải trả đó là
không (0). (2) Nợ phải trả ngắn hạn có
khoản “tiền lãi nhận trước” với giá trị ghi sổ là 100. Doanh thu tiền lãi tương
ứng phải chịu thuế thu nhập trên cơ sở phân bổ phù hợp với kỳ tính lãi. Cơ sở
tính thuế thu nhập của khoản lãi nhận trước này là không (0). (3) Nợ phải trả ngắn hạn có
khoản “chi phí phải trả” về tiền điện, nước, điện thoại có giá trị ghi sổ là
100. Chi phí phải trả này đã được khấu trừ cho mục đích tính thuế thu nhập tại
năm hiện hành. Cơ sở tính thuế thu nhập của khoản nợ phải trả này là
100. (4) Nợ phải trả ngắn hạn có khoản “tiền phạt phải trả” với giá trị ghi
sổ là 100. Tiền phạt không được khấu trừ cho mục đích tính thuế thu nhập. Cơ sở
tính thuế thu nhập của khoản tiền phạt phải trả này là
100. Theo ví dụ này, ở đây không có chênh lệch tạm thời được khấu trừ. Có thể
phân tích theo cách khác như sau: Khoản tiền phạt phải trả này có cơ sở tính
thuế thu nhập là không (0) và thuế suất thuế thu nhập là 0% được áp dụng cho
khoản chênh lệch tạm thời được khấu trừ phát sinh là 100. Theo cả hai cách nói
trên thì đều không có tài sản thuế thu nhập hoãn lại. (5) Một khoản đi vay phải trả có
giá trị ghi sổ là 100. Việc thanh toán khoản vay này không có ảnh hưởng đến thuế
thu nhập. Cơ sở tính thuế thu nhập của khoản đi vay này là
100. |
06. Một vài khoản mục có cơ sở tính thuế nhưng lại không được ghi nhận
là tài sản và nợ phải trả trên Bảng cân đối kế toán. Ví dụ, một khoản chi phí
mua sắm công cụ, dụng cụ có giá trị lớn đã được ghi nhận ngay là chi phí khi xác
định lợi nhuận kế toán của kỳ khi khoản chi phí mua sắm công cụ, dụng cụ này
phát sinh nhưng chỉ được coi là một khoản khấu trừ khi xác định lợi nhuận tính
thuế thu nhập (lỗ tính thuế) của các kỳ sau đó. Chênh lệch giữa cơ sở tính thuế
thu nhập của khoản chi phí mua sắm công cụ, dụng cụ này là giá trị mà cơ quan
thuế cho phép được khấu trừ trong kỳ tương lai, với giá trị ghi sổ bằng không
(0) của nó, vì đây là khoản chênh lệch tạm thời được khấu trừ và sẽ tạo ra một
tài sản thuế thu nhập hoãn lại.
07. Khi cơ sở tính thuế thu nhập của một tài
sản hay một khoản nợ phải trả chưa rõ ràng, ngoại trừ một số trường hợp nhất
định cần phải xem xét đến nguyên tắc cơ bản mà chuẩn mực này dựa vào là một
doanh nghiệp phải ghi nhận một khoản thuế thu nhập hoãn lại phải trả (tài sản
thuế thu nhập hoãn lại) bất cứ khi nào việc thu hồi hay thanh toán giá trị ghi
sổ của một tài sản hay một khoản nợ phải trả làm cho khoản phải nộp thuế thu
nhập trong tương lai nhiều hơn (hay ít đi) so với số thuế thu nhập phải nộp
trong năm hiện hành nếu việc thu hồi hay thanh toán này không có ảnh hưởng đến
thuế thu nhập.
Ghi nhận thuế thu nhập hiện hành phải nộp và tài sản thuế thu nhập hiện
hành
08. Thuế thu nhập hiện hành của kỳ hiện tại và
các kỳ trước, nếu chưa nộp, phải được ghi nhận là nợ phải trả. Nếu giá trị đã
nộp trong kỳ hiện tại và các kỳ trước vượt quá số phải nộp cho các kỳ đó, thì
phần giá trị nộp thừa sẽ được ghi nhận là tài sản.
Ghi nhận thuế thu nhập hoãn lại phải trả và tài sản thuế thu nhập hoãn
lại
Chênh lệch tạm thời chịu thuế thu nhập doanh
nghiệp
09. Thuế thu nhập hoãn lại phải
trả phải được ghi nhận cho tất cả các khoản chênh lệch tạm thời chịu thuế, trừ
khi nợ thuế thu nhập hoãn lại phải trả phát sinh từ ghi nhận ban đầu của một tài
sản hay nợ phải trả của một giao dịch mà giao dịch này không có ảnh hưởng đến
lợi nhuận kế toán hoặc lợi nhuận tính thuế thu nhập (hoặc lỗ tính thuế) tại thời
điểm phát sinh giao dịch,.
10. Cơ sở của việc ghi
nhận một tài sản là giá trị ghi sổ của tài sản đó sẽ được thu hồi thông qua hình
thức doanh nghiệp sẽ nhận được lợi ích kinh tế trong tương lai. Khi giá trị ghi
sổ của tài sản vượt quá cơ sở tính thuế thu nhập của nó thì giá trị của lợi ích
kinh tế phải chịu thuế thu nhập sẽ vượt quá giá trị sẽ được phép khấu trừ cho
mục đích tính thuế. Đây là chênh lệch tạm thời chịu thuế và nghĩa vụ phải trả
cho khoản thuế thu nhập do chênh lệch này tạo ra trong tương lai chính là thuế
thu nhập hoãn lại phải trả. Khi doanh nghiệp thu hồi giá trị sổ của tài sản đó
thì khoản chênh lệch tạm thời chịu thuế sẽ hoàn nhập và doanh nghiệp sẽ có lợi
nhuận chịu thuế thu nhập. Lợi ích kinh tế của doanh nghiệp sẽ bị giảm đi do phải
nộp thuế thu nhập. Chuẩn mực này yêu cầu phải ghi nhận tất cả các khoản thuế thu
nhập hoãn lại phải trả, trừ những trường hợp cụ thể được trình bày trong đoạn
09.
Ví dụ: Một tài sản cố định có nguyên giá là 150, giá trị còn lại là 100. Khấu
hao luỹ kế cho mục đích tính thuế thu
nhập là 90 và thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 28%. Cơ sở tính thuế thu nhập của tài sản là 60 (nguyên giá 150 trừ khấu hao
luỹ kế cho mục đích tính thuế 90). Để thu hồi giá trị ghi sổ 100 này, doanh
nghiệp phải có thu nhập chịu thuế là 100, nhưng chỉ có thể có khấu hao cho mục
đích tính thuế là 60. Do vậy, doanh nghiệp sẽ nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là
11,2 (28% của 40) khi doanh nghiệp thu hồi giá trị ghi sổ của tài sản này. Chênh
lệch giữa giá trị ghi sổ 100 và cơ sở tính thuế 60 là khoản chênh lệch tạm thời
phải chịu thuế 40. Vì vậy, doanh nghiệp ghi nhận một khoản nợ thuế thu nhập hoãn
lại phải trả là 11,2 thể hiện phần thuế thu nhập doanh nghiệp mà doanh nghiệp sẽ
phải nộp khi doanh nghiệp thu hồi được giá trị ghi sổ của tài
sản. |
11.Một số chênh lệch tạm thời phát sinh khi thu nhập hoặc chi phí được
tính vào lợi nhuận kế toán của một kỳ, nhưng lại được tính vào lợi nhuận chịu
thuế của một kỳ khác. Các chênh lệch như vậy thường phát sinh do chênh lệch về
thời gian. Các chênh lệch tạm thời loại này là các chênh lệch tạm thời phải chịu
thuế và làm phát sinh thuế thu nhập hoãn lại phải trả.
Ví dụ:
Khấu hao sử dụng khi xác định lợi nhuận tính thuế (lỗ tính thuế) có thể
khác với khấu hao sử dụng khi xác định lợi nhuận kế toán. Chênh lệch tạm thời là
chênh lệch giữa giá trị ghi sổ của tài sản và cơ sở tính thuế của nó được tính
theo nguyên giá trừ đi các khoản giảm trừ theo Luật thuế quy định khi xác định
lợi nhuận tính thuế của kỳ hiện hành và các kỳ trước. Một khoản chênh lệch tạm
thời chịu thuế phát sinh và tạo ra một khoản thuế thu nhập hoãn lại phải trả khi
tài sản được khấu hao cho mục đích tính thuế nhanh hơn so với khấu hao cho mục
đích kế toán. Nếu khấu hao cho mục đích tính thuế chậm hơn so với khấu hao cho
mục đích kế toán sẽ phát sinh khoản chênh lệch tạm thời được khấu trừ và tạo ra
một tài sản thuế thu nhập hoãn lại.
Ghi nhận ban đầu của tài sản và nợ phải trả
12.Một khoản chênh lệch tạm thời có thể phát sinh từ việc ghi nhận ban
đầu của một tài sản hoặc nợ phải trả như khi một phần hoặc toàn bộ giá trị của
một tài sản không được khấu trừ cho mục đích tính thuế. Phương pháp kế toán cho
khoản chênh lệch tạm thời này phụ thuộc vào bản chất của giao dịch dẫn đến việc
ghi nhận ban đầu của tài sản.
Nếu giao dịch đó ảnh hưởng đến lợi nhuận kế toán hoặc lợi nhuận tính
thuế, doanh nghiệp ghi nhận thuế thu nhập hoãn lại phải trả hoặc tài sản thuế
thu nhập hoãn lại và ghi nhận chi phí hoặc thu nhập thuế hoãn lại phát sinh
trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (xem đoạn 41).
Chênh lệch tạm thời được khấu trừ
13.Tài sản thuế thu nhập hoãn lại
cần được ghi nhận cho tất cả các chênh lệch tạm thời được khấu trừ, khi chắc
chắn trong tương lai sẽ có lợi nhuận tính thuế để sử dụng những chênh lệch tạm
thời được khấu trừ này, ngoại trừ tài sản thuế hoãn lại phát sinh từ ghi nhận
ban đầu của một tài sản hoặc nợ phải trả từ một giao dịch mà giao dịch này không
có ảnh hưởng đến lợi nhuận kế toán hoặc lợi nhuận tính thuế thu nhập (lỗ tính
thuế) tại thời điểm giao dịch.
14.Cơ sở ghi nhận một khoản nợ phải trả là giá trị ghi sổ của nó sẽ được
thanh toán trong tương lai thông qua việc doanh nghiệp bị mất đi lợi ích kinh
tế. Khi lợi ích kinh tế bị mất đi, một phần hoặc toàn bộ giá trị của chúng có
thể sẽ được giảm trừ khỏi lợi nhuận tính thuế của kỳ sau kỳ mà khoản nợ phải trả
đó được ghi nhận. Trường hợp như vậy, chênh lệch tạm thời tồn tại giữa giá trị
ghi sổ của khoản nợ phải trả và cơ sở tính thuế của khoản nợ phải trả đó. Do
vậy, phát sinh một tài sản thuế thu nhập hoãn lại về các khoản thuế thu nhập
doanh nghiệp sẽ được thu hồi trong tương lai, khi phần của khoản nợ phải trả đó
được phép khấu trừ khi xác định lợi nhuận tính thuế.
Tương tự như vậy, nếu giá trị ghi sổ của một tài sản nhỏ hơn cơ sở tính
thuế của tài sản đó thì chênh lệch làm phát sinh một tài sản thuế thu nhập hoãn
lại về các khoản thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ được thu hồi trong tương
lai.
Ví dụ: Một doanh nghiệp ghi nhận một khoản nợ phải trả 100, là chi phí phải trả
về bảo hành sản phẩm. Cho mục đích tính thuế thu nhập, chi phí bảo hành sản phẩm
chỉ được khấu trừ khi doanh nghiệp thanh toán nghĩa vụ bảo hành. Thuế suất thuế
thu nhập doanh nghiệp là 28%. Cơ sở tính thuế các khoản nợ phải trả này là không (giá trị ghi sổ 100,
trừ đi phần giá trị của khoản nợ phải trả 100 sẽ được khấu trừ cho mục đích tính
thuế trong tương lai). Khi thanh toán nợ phải trả theo giá trị ghi sổ, doanh
nghiệp sẽ được giảm lợi nhuận tính thuế trong tương lai của mình với giá trị 100
và do đó thuế thu nhập giảm 28 (28% của 100). Chênh lệch giữa giá trị ghi sổ 100
và cơ sở tính thuế 0, là chênh lệch tạm thời được khấu trừ 100. Vì vậy, doanh
nghiệp ghi nhận tài sản thuế thu nhập hoãn lại là 28, với điều kiện doanh nghiệp
chắc chắn sẽ có được đủ lợi nhuận tính thuế trong tương lai để có thể hưởng lợi
từ việc giảm thuế trong tương
lai. |
15.Chênh lệch có thể được khấu trừ dẫn đến ghi nhận tài sản thuế thu
nhập hoãn lại, ví dụ:
Chi phí về các khoản trích trước sửa chữa lớn TSCĐ được tính trừ vào lợi
nhuận kế toán, nhưng chỉ được khấu trừ vào lợi nhuận tính thuế thu nhập khi
doanh nghiệp thực chi. Trường hợp này sẽ có chênh lệch tạm thời giữa giá trị ghi
sổ của khoản chi phí phải trả với cơ sở tính thuế của khoản nợ phải trả. Chênh
lệch tạm thời được khấu trừ này làm phát sinh tài sản thuế thu nhập hoãn lại do
doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi ích kinh tế dưới hình thức giảm lợi nhuận tính
thuế khi doanh nghiệp thực chi về sửa chữa lớn TSCĐ.
16.Việc hoàn nhập các chênh lệch tạm thời được khấu trừ dẫn đến sự giảm
trừ khi xác định lợi nhuận tính thuế trong tương lai. Doanh nghiệp sẽ chỉ được
hưởng lợi ích kinh tế dưới hình thức giảm trừ các khoản nộp thuế nếu doanh
nghiệp có đủ lợi nhuận tính thuế để có thể bù trừ với phần giảm trừ đó. Do vậy,
một doanh nghiệp chỉ ghi nhận tài sản thuế thu nhập hoãn lại khi chắc chắn có
lợi nhuận tính thuế để sử dụng các chênh lệch tạm thời được khấu
trừ.
17.Việc có lợi nhuận tính thuế để sử dụng các chênh lệch tạm thời được
khấu trừ được coi là chắc chắn khi có đủ các chênh lệch tạm thời chịu thuế liên
quan đến cùng một cơ quan thuế và cùng một đơn vị chịu thuế, và các chênh lệch
tạm thời chịu thuế đó dự kiến sẽ được hoàn nhập:
Trong cùng kỳ với sự hoàn nhập chênh lệch tạm thời được khấu trừ đó;
hoặc
Trong các kỳ mà một khoản lỗ tính thuế phát sinh từ tài sản thuế thu
nhập hoãn lại đó có thể được khấu trừ chuyển sang các kỳ
sau.
Trong tình huống như vậy, tài sản thuế thu nhập hoãn lại được ghi nhận
trong kỳ sẽ phát sinh các chênh lệch tạm thời được khấu
trừ.
18.Khi không có đủ các chênh lệch tạm thời chịu thuế liên quan đến cùng
một cơ quan thuế và cùng đơn vị chịu thuế, thì tài sản thuế thu nhập hoãn lại
chỉ được ghi nhận trong phạm vi:
Doanh nghiệp có đủ lợi nhuận chịu thuế liên quan đến cùng một cơ quan
thuế và đơn vị chịu thuế trong cùng kỳ phát sinh việc hoàn nhập các chênh lệch
tạm thời được khấu trừ (hoặc trong các kỳ mà một khoản lỗ tính thuế phát sinh từ
tài sản thuế thu nhập hoãn lại đó có thể được khấu trừ chuyển sang năm sau). Khi
đánh giá lợi nhuận chịu thuế trong tương lai, doanh nghiệp không tính đến các
giá trị chịu thuế phát sinh từ các chênh lệch tạm thời được khấu trừ dự kiến sẽ
phát sinh trong tương lai, vì tài sản thuế thu nhập hoãn lại phát sinh từ các
chênh lệch tạm thời được khấu trừ này cũng sẽ đòi hỏi lợi nhuận chịu thuế để
được sử dụng; hoặc
Vận dụng hợp lý các quy định về thuế để tạo ra lợi nhuận tính thuế của
những kỳ thích hợp.
19.Vận dụng hợp lý các quy định về thuế là biện pháp mà doanh nghiệp có
thể thực hiện để tạo ra hoặc tăng mức thu nhập tính thuế trong một kỳ cụ thể
trước khi hết hạn chuyển một khoản lỗ hay một khoản ưu đãi thuế. Ví dụ lợi nhuận
tính thuế có thể được tạo ra hoặc tăng lên bởi:
Tạm hoãn khoản bồi thường để không giảm trừ vào lợi nhuận tính
thuế;
Bán hoặc cho thuê lại các tài sản đã tăng giá nhưng cơ sở tính thuế
không điều chỉnh theo sự tăng giá đó; và
Bán các tài sản tạo ra thu nhập không chịu thuế như bán trái phiếu chính
phủ để mua khoản đầu tư khác tạo ra thu nhập tính thuế.
Khi vận dụng các quy định về thuế có thể tạo ra khả năng chuyển lợi
nhuận tính thuế từ kỳ sau lên kỳ trước, việc sử dụng một khoản lỗ hay một khoản
ưu đãi thuế được khấu trừ chuyển sang vẫn phụ thuộc vào sự có được lợi nhuận
tính thuế trong tương lai được tạo ra từ các nguồn khác chứ không phải là từ các
chênh lệch tạm thời phát sinh trong tương lai.
20.Khi doanh nghiệp liên tiếp thua lỗ thì doanh nghiệp phải xem xét các
quy định trong đoạn 22 và 23.
Các khoản lỗ tính thuế và các khoản ưu đãi thuế chưa sử
dụng
21.Tài sản thuế thu nhập hoãn lại
cần được ghi nhận cho giá trị được khấu trừ chuyển sang các kỳ sau của các khoản
lỗ tính thuế và các khoản ưu đãi thuế chưa sử dụng trong phạm vi chắc chắn có đủ
lợi nhuận tính thuế trong tương lai để sử dụng các khoản lỗ tính thuế và các ưu
đãi thuế chưa sử dụng đó.
22.Điều kiện ghi nhận tài sản thuế thu nhập hoãn lại phát sinh từ giá
trị được khấu trừ chuyển sang của các khoản lỗ tính thuế và các khoản ưu đãi
thuế chưa sử dụng cũng giống với điều kiện ghi nhận tài sản thuế thu nhập hoãn
lại phát sinh từ các khoản chênh lệch tạm thời được khấu trừ. Tuy nhiên, sự tồn
tại của các khoản lỗ tính thuế chưa sử dụng
là bằng chứng rõ ràng về việc doanh nghiệp có thể không có lợi nhuận tính thuế
trong tương lai. Khi doanh nghiệp liên tiếp thua lỗ thì doanh nghiệp chỉ ghi
nhận tài sản thuế thu nhập hoãn lại phát sinh từ các khoản lỗ tính thuế hay các
khoản ưu đãi thuế chưa sử dụng trong phạm vi doanh nghiệp có đủ các chênh lệch
tạm thời chịu thuế hoặc có bằng chứng thuyết phục khác về việc sẽ có lợi nhuận
tính thuế để doanh nghiệp có thể sử dụng được các khoản lỗ tính thuế và các
khoản ưu đãi thuế chưa sử dụng đó. Trường hợp này yêu cầu là phải trình bày giá
trị tài sản thuế thu nhập hoãn lại và các bằng chứng ghi nhận tài sản thuế thu
nhập hoãn lại (xem đoạn 59).
23.Để đánh giá khả năng chắc chắn sẽ có lợi nhuận tính thuế để có thể sử
dụng được các khoản lỗ tính thuế được khấu trừ chuyển sang năm sau và các khoản
ưu đãi thuế chưa sử dụng, doanh nghiệp cần cân nhắc các điều kiện
sau:
Doanh nghiệp có đủ các chênh lệch tạm thời chịu thuế liên quan đến
cùng cơ quan thuế và cùng đơn vị chịu
thuế mà các chênh lệch này sẽ làm phát sinh các khoản phải chịu thuế để có thể
sử dụng được các khoản lỗ tính thuế hoặc các khoản ưu đãi thuế chưa sử dụng
trước khi các khoản này hết hạn sử dụng;
Doanh nghiệp có lợi nhuận tính thuế trước khi hết hạn sử dụng các khoản
chuyển lỗ và các khoản ưu đãi thuế chưa được sử dụng;
Nguyên nhân dẫn đến các khoản lỗ tính thuế chưa sử dụng có tiếp tục xảy
ra hay không; và
Các quy định về thuế (xem đoạn 19) có cho phép doanh nghiệp tạo ra lợi
nhuận tính thuế trong kỳ có thể sử dụng được các khoản lỗ tính thuế hay các
khoản ưu đãi thuế chưa sử dụng.
Nếu không chắc chắn có lợi nhuận tính thuế để sử dụng các khoản lỗ chịu
thuế và các khoản ưu đãi thuế, thì tài sản thuế thu nhập hoãn lại không được ghi
nhận.
Đánh giá lại tài sản thuế thu nhập hoãn lại chưa được ghi
nhận
24.Tại các ngày kết thúc niên độ kế toán, doanh nghiệp phải đánh giá các
tài sản thuế thu nhập hoãn lại chưa được ghi nhận. Doanh nghiệp cần ghi nhận tài
sản thuế thu nhập hoãn lại trước đó chưa được ghi nhận khi việc có được lợi
nhuận tính thuế trong tương lai để cho phép tài sản thuế hoãn lại được thu hồi
trở nên chắc chắn. Ví dụ, việc cải thiện điều kiện kinh doanh làm cho yếu tố
chắc chắn trở nên rõ ràng hơn là doanh nghiệp sẽ tạo ra đủ lợi nhuận tính thuế
trong tương lai, thỏa mãn các quy định trong đoạn 13 hoặc 21.
Khoản đầu tư vào công ty con, chi nhánh, công ty liên kết và các khoản vốn góp liên
doanh
25. Một doanh nghiệp phải ghi nhận thuế thu nhập hoãn lại phải trả cho
tất cả các chênh lệch tạm thời chịu thuế gắn liền với các khoản đầu tư vào
công ty con, chi nhánh, công ty liên
kết và các khoản vốn góp liên doanh, trừ khi đáp ứng được cả 2 điều kiện
sau:
a)Công ty mẹ, nhà đầu tư hoặc bên liên doanh có khả năng kiểm soát thời
gian hoàn nhập khoản chênh lệch tạm thời;
b)Chắc chắn khoản chênh lệch tạm thời sẽ không được hoàn nhập trong
tương lai có thể dự đoán được.
26.Khi một công ty mẹ kiểm soát được chính sách chia cổ tức của công ty
con, công ty mẹ có thể kiểm soát thời gian hoàn nhập các chênh lệch tạm thời gắn
liền với khoản đầu tư đó (bao gồm các chênh lệch tạm thời phát sinh không chỉ từ
lợi nhuận chưa phân phối mà còn từ các chênh lệch chuyển đổi ngoại tệ). Hơn nữa,
thường không thể xác định được giá trị khoản thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ phải
trả khi chênh lệch tạm thời hoàn nhập. Khi công ty mẹ xác định lợi nhuận của
công ty con sẽ không được phân phối trong tương lai có thể dự đoán được, thì
công ty mẹ không ghi nhận thuế thu nhập hoãn lại phải trả. Đối với khoản đầu tư
vào các chi nhánh, quá trình xem xét cũng diễn ra tương
tự.
27. Doanh nghiệp ghi nhận theo
đơn vị tiền tệ chính thức trong ghi chép kế toán cho các khoản mục tài sản và nợ
phải trả phi tiền tệ của hoạt động ở nước ngoài mà hoạt động này là một phần
không thể tách rời với hoạt động của doanh nghiệp (xem Chuẩn mực kế toán số 10
“ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ giá hối đoái”).
Khi lợi nhuận tính thuế hay lỗ tính thuế và cơ sở tính thuế thu nhập của
khoản mục tài sản và nợ phải trả phi tiền tệ của hoạt động ở nước ngoài được xác
định bằng ngoại tệ, thì các thay đổi tỷ giá hối đoái cũng làm phát sinh các
chênh lệch tạm thời. Chênh lệch tạm thời này liên quan đến tài sản và nợ phải
trả của hoạt động ở nước ngoài chứ không liên quan tới khoản đầu tư của doanh
nghiệp báo cáo nên doanh nghiệp báo cáo ghi nhận nợ thuế thu nhập hoãn lại phải
trả hoặc tài sản thuế thu nhập hoãn lại (nếu thỏa mãn điều kiện ở đoạn 13) phát
sinh. Thuế thu nhập hoãn lại phát sinh được ghi nhận vào Báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh (xem đoạn 40).
28.Nhà đầu tư của công ty liên kết nếu không có quyền kiểm soát thì
không quyết định được chính sách chia cổ tức của công ty liên kết đó. Khi không
có thỏa thuận là lợi nhuận của công ty liên kết sẽ không được phân phối trong
tương lai có thể dự đoán được, thì nhà đầu tư phải ghi nhận thuế thu nhập hoãn
lại phải trả phát sinh từ khoản chênh lệch tạm thời chịu thuế gắn liền với khoản
đầu tư của nhà đầu tư vào công ty liên kết. Trong một số trường hợp, nhà đầu tư
có thể không xác định được số thuế sẽ phải trả nếu thu hồi giá vốn của khoản đầu
tư vào công ty liên kết, nhưng có thể xác định được là nó sẽ bằng hoặc vượt mức
tối thiểu. Trường hợp này, thuế thu nhập hoãn lại phải trả được xác định theo
mức tối thiểu đó.
29.Các bên liên doanh thường thoả thuận về việc phân chia lợi nhuận và
xác định việc quyết định phân chia này cần có sự đồng ý của tất cả các bên liên
doanh hay chỉ cần sự đồng ý của đa số bên liên doanh. Khi một bên liên doanh có
thể kiểm soát việc phân chia lợi nhuận và chắc chắn rằng lợi nhuận sẽ không được
phân chia trong tương lai có thể dự đoán được thì thuế thu nhập hoãn lại phải
trả không được ghi nhận.
30.Doanh nghiệp cần phải ghi nhận
tài sản thuế thu nhập hoãn lại cho tất cả các chênh lệch tạm thời được khấu trừ
phát sinh từ các khoản đầu tư vào các công ty con, chi nhánh, công ty liên kết
và các khoản vốn góp liên doanh khi chắc chắn là:
Chênh lệch tạm thời sẽ hoàn nhập trong tương lai có thể dự đoán được;
và
Có lợi nhuận chịu thuế để sử dụng được khoản chênh lệch tạm thời
đó.
31.Để xác định có nên ghi nhận tài sản thuế thu nhập hoãn lại cho các
chênh lệch tạm thời được khấu trừ gắn liền với các khoản đầu tư vào các công ty
con, chi nhánh, công ty liên kết và các khoản vốn góp liên doanh hay không,
doanh nghiệp cần xem xét quy định ở các đoạn từ 17 đến 20.
Xác định giá trị
32.Thuế thu nhập hiện hành phải
nộp (hoặc tài sản thuế thu nhập hiện hành) cho năm hiện hành và các năm trước
được xác định bằng giá trị dự kiến phải nộp cho (hoặc thu hồi từ) cơ quan thuế,
sử dụng các mức thuế suất (và các luật thuế) có hiệu lực tại ngày kết thúc niên
độ kế toán.
33.Tài sản thuế thu nhập hoãn lại
và thuế thu nhập hoãn lại phải trả cần được xác định theo thuế suất dự tính sẽ
áp dụng cho năm tài sản được thu hồi hay nợ phải trả được thanh toán, dựa trên
các mức thuế suất (và các luật thuế) có hiệu lực tại ngày kết thúc niên độ kế
toán.
34.Tài sản thuế thu nhập hiện hành và thuế thu nhập hoãn lại cũng như
thuế thu nhập hiện hành và thuế thu nhập hoãn lại phải trả thường được tính theo
thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đã
ban hành.
35.Việc xác định giá trị thuế thu
nhập hoãn lại phải trả và tài sản thuế thu nhập hoãn lại phải phản ảnh các ảnh
hưởng về thuế theo đúng cách thức thu hồi hoặc thanh toán giá trị ghi sổ của các
khoản mục tài sản và nợ phải trả mà doanh nghiệp dự kiến tại ngày kết thúc niên
độ kế toán.
36.Tài sản thuế thu nhập hoãn lại và nợ thuế thu nhập hoãn lại phải trả
không được chiết khấu.
37.Để có thể xác định một cách tin cậy tài sản thuế thu nhập hoãn lại và
thuế thu nhập hoãn lại phải nộp trên cơ sở chiết khấu, cần phải có biểu chi tiết
về thời gian hoàn nhập của từng khoản chênh lệch tạm thời. Trong nhiều trường
hợp, việc có được biểu chi tiết như vậy là không thực tế hoặc rất phức tạp. Vì
vậy, việc đòi hỏi bắt buộc phải chiết khấu các tài sản thuế hoãn lại và thuế
hoãn lại phải trả là không phù hợp. Nếu cho phép mà không đòi hỏi bắt buộc phải
chiết khấu sẽ dẫn đến tài sản thuế hoãn lại và thuế hoãn lại phải trả không được
áp dụng nhất quán giữa các doanh nghiệp. Vì vậy, chuẩn mực này không đòi hỏi bắt
buộc và cũng không cho phép chiết khấu tài sản thuế hoãn lại và thuế hoãn lại
phải trả.
38.Giá trị ghi sổ của tài sản
thuế thu nhập hoãn lại phải được xem xét lại vào ngày kết thúc niên độ kế toán.
Doanh nghiệp phải giảm giá trị ghi sổ của tài sản thuế thu nhập hoãn lại đến mức
đảm bảo chắc chắn có đủ lợi nhuận tính thuế cho phép lợi ích của một phần hoặc
toàn bộ tài sản thuế thu nhập hoãn lại được sử dụng. Các khoản ghi giảm này cần
phải hoàn nhập khi xác định chắc chắn có đủ lợi nhuận tính
thuế.
Ghi nhận thuế thu nhập hiện hành và thuế thu nhập hoãn
lại
39.Kế toán đối với ảnh hưởng về thuế thu nhập hiện hành và thuế thu nhập
hoãn lại của một giao dịch hay sự kiện khác được ghi nhận nhất quán với việc ghi
nhận cho chính giao dịch hay sự kiện đó theo quy định tại các đoạn từ 40 đến
47.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
40.Thuế thu nhập hiện hành và
thuế thu nhập hoãn lại được ghi nhận là thu nhập hay chi phí để tính lãi, lỗ của
kỳ phát sinh, ngoại trừ trường hợp thuế thu nhập phát sinh từ một giao dịch hoặc
sự kiện được ghi nhận trực tiếp vào vốn chủ sở hữu trong cùng kỳ hay một kỳ khác
(xem các đoạn từ 43 đến 47).
41.Phần lớn tài sản thuế thu nhập hoãn lại và thuế thu nhập hoãn lại
phải trả phát sinh khi một khoản thu nhập hoặc chi phí được tính vào lợi nhuận
kế toán của một kỳ, nhưng được tính vào lợi nhuận tính thuế (lỗ tính thuế) của
một kỳ khác. Thuế thu nhập hoãn lại phát sinh được ghi nhận trong báo cáo kết
quả hoạt động kinh doanh, như:
Doanh thu chênh lệch tỷ giá đánh giá lại cuối năm tài chính được tính
vào lợi nhuận kế toán theo quy định ở Chuẩn mực kế toán số 10 “ảnh hưởng của
việc thay đổi tỷ giá hối đoái”, nhưng chỉ được đưa vào lợi nhuận tính thuế (lỗ
tính thuế) trên cơ sở thực tế phát sinh; và
Chi phí công cụ, dụng cụ được tính vào Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh theo Chuẩn mực kế toán số 02 “Hàng tồn kho” nhưng phải được phân bổ dần để
khấu trừ cho mục đích tính thuế.
42.Giá trị ghi sổ của tài sản thuế thu nhập hoãn lại và thuế thu nhập
hoãn lại phải trả có thể thay đổi thậm chí cả khi không có sự thay đổi giá trị
của các chênh lệch tạm thời có liên quan, như:
a) Khi có thay đổi về thuế suất hoặc Luật thuế thu nhập doanh
nghiệp;
b) Khi đánh giá lại khả năng thu hồi của tài sản thuế thu nhập hoãn lại;
hoặc
c) Khi thay đổi cách thức thu hồi giá trị tài sản.
Thuế thu nhập hoãn lại phát sinh được ghi nhận trong Báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh, ngoại trừ phạm vi liên quan đến các khoản mục trước đây đã
được ghi thẳng vào vốn chủ sở hữu (xem đoạn 45).
Các khoản mục ghi thẳng vào vốn chủ sở hữu
43.Thuế thu nhập hiện hành và
thuế thu nhập hoãn lại phải được ghi thẳng vào vốn chủ sở hữu nếu khoản thuế đó
có liên quan đến các khoản mục được ghi thẳng vào vốn chủ sở hữu trong cùng kỳ
hay kỳ khác.
44.Chuẩn mực kế toán Việt Nam yêu cầu hoặc cho phép một số khoản mục
được ghi thẳng vào vốn chủ sở hữu, như:
a) Điều chỉnh số dư đầu kỳ của lợi nhuận giữ lại do có thay đổi về chính
sách kế toán, mà việc thay đổi này được áp dụng hồi tố hoặc phải sửa do có lỗi
cơ bản (xem Chuẩn mực kế toán số 29 “Thay đổi chính sách kế toán, ước tính kế
toán và các sai sót”);
b) Chênh lệch tỷ giá do chuyển đổi báo cáo tài chính của cơ sở ở nước
ngoài (xem Chuẩn mực kế toán số 10 “ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ giá hối
đoái”).
45.Trường hợp ngoại lệ, có thể khó xác định giá trị thuế thu nhập hiện
hành hoặc thuế thu nhập hoãn lại liên quan đến các khoản mục được ghi thẳng vào
vốn chủ sở hữu.
Ví dụ:
Thay đổi về thuế suất hay các quy định về thuế làm ảnh hưởng đến tài sản
thuế thu nhập hoãn lại hoặc thuế thu nhập hoãn lại phải trả có liên quan (một
phần hay toàn bộ) tới một khoản mục trước đây đã được ghi thẳng vào vốn chủ sở
hữu; hoặc
Doanh nghiệp đã xác định tài sản thuế thu nhập hoãn lại phải được ghi
nhận hoặc không được tiếp tục ghi nhận toàn bộ giá trị, và tài sản thuế thu nhập
hoãn lại đó liên quan (một phần hay toàn bộ) tới một khoản mục trước đây đã được
ghi thẳng vào vốn chủ sở hữu.
Trường hợp này thuế thu nhập hoãn lại và thuế thu nhập hiện hành liên
quan đến các khoản mục được ghi thẳng vào vốn chủ sở hữu sẽ được tính dựa trên
sự phân bổ hợp lý của thuế thu nhập hoãn lại và thuế thu nhập hiện hành của
doanh nghiệp trong khuôn khổ quy định về thuế liên quan, hoặc theo phương pháp
khác nhằm đạt được sự phân bổ phù hợp hơn tuỳ từng trường hợp cụ
thể.
46.Khi một tài sản được đánh giá lại cho mục đích thuế và việc đánh giá
lại đó liên quan đến việc đánh giá lại cho mục đích kế toán (nếu có theo quy
định của pháp luật) ở một kỳ trước, hoặc dự kiến sẽ thực hiện ở một kỳ sau này,
ảnh hưởng đến thuế của cả việc đánh giá lại và điều chỉnh cơ sở tính thuế được
ghi vào vốn chủ sở hữu trong kỳ thực hiện việc đánh giá lại. Tuy nhiên, nếu việc
đánh giá lại cho mục đích thuế không liên quan đến việc đánh giá lại cho mục
đích kế toán được thực hiện ở một kỳ trước đó hoặc ở kỳ sau này, ảnh hưởng thuế
của việc điều chỉnh cơ sở tính thuế sẽ được ghi nhận vào Báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh.
47.Khi doanh nghiệp thanh toán cho tổ chức, cá nhân người nước ngoài
kinh doanh không có cơ sở thường trú tại Việt Nam, doanh nghiệp phải nộp thuế
thu nhập cho cơ quan thuế thay cho tổ chức, cá nhân này. Theo quy định hiện
hành, khoản nộp thuế trên thu nhập này được gọi là thuế khấu trừ tại nguồn.
Khoản phải nộp hay đã nộp này được ghi thẳng vào vốn chủ sở hữu như một phần của
cổ tức, hay lợi nhuận.
Trình bày
Tài sản thuế thu nhập hoãn lại và nợ thuế thu nhập hoãn lại phải
trả
48.Tài sản thuế thu nhập hoãn lại
và nợ thuế thu nhập hoãn lại phải trả phải được trình bày tách biệt với các tài
sản và nợ phải trả khác trong Bảng cân đối kế toán. Tài sản thuế thu nhập hoãn
lại và nợ thuế thu nhập hoãn lại phải trả phải được phân biệt với các tài sản
thuế thu nhập hiện hành và thuế thu nhập hiện hành phải
nộp.
49.Khi doanh nghiệp phân loại
thành tài sản ngắn hạn, nợ phải trả ngắn hạn và các tài sản và nợ phải trả dài
hạn trên báo cáo tài chính, thì không được phân loại các tài sản thuế thu nhập
hoãn lại (nợ thuế thu nhập hoãn lại phải trả) thuộc các khoản mục phản ánh về
tài sản ngắn hạn (hoặc nợ phải trả ngắn hạn).
Bù trừ
50. Doanh nghiệp chỉ được bù trừ các tài sản thuế
thu nhập hiện hành và nợ phải trả thuế thu nhập hiện hành khi doanh
nghiệp:
Có quyền hợp pháp để bù trừ các khoản đã được ghi nhận,
và
Dự định thanh toán trên cơ sở thuần hoặc sẽ thu hồi tài sản đồng thời
với thanh toán nợ phải trả.
51. Doanh nghiệp chỉ được bù trừ các tài sản thuế
thu nhập hoãn lại và thuế thu nhập hoãn lại phải trả
khi:
Doanh nghiệp có quyền hợp pháp được bù trừ giữa tài sản thuế thu nhập
hiện hành với thuế thu nhập hiện hành phải nộp; và
Các tài sản thuế thu nhập hoãn lại và thuế thu nhập hoãn lại phải trả
liên quan tới thuế thu nhập doanh nghiệp được quản lý bởi cùng một cơ quan thuế
đối với:
Cùng một đơn vị chịu thuế; hoặc
Các đơn vị chịu thuế khác nhau có dự định thanh toán thuế thu nhập hiện
hành phải trả và tài sản thuế thu nhập hiện hành trên cơ sở thuần hoặc thu hồi
tài sản đồng thời với việc thanh toán nợ phải trả trong từng kỳ tương lai khi
các khoản trọng yếu của thuế thu nhập hoãn lại phải trả hoặc tài sản thuế thu
nhập hoãn lại được thanh toán hoặc thu hồi.
52.Để tránh phải hoàn nhập từng khoản chênh lệch tạm thời, Chuẩn mực này
cho phép doanh nghiệp được bù trừ tài sản thuế thu nhập hoãn lại với thuế thu
nhập hoãn lại phải trả của cùng đơn vị chịu thuế khi chúng liên quan tới thuế
thu nhập doanh nghiệp phải nộp tại cùng một cơ quan thuế và doanh nghiệp có
quyền hợp pháp để bù trừ tài sản thuế thu nhập hiện hành với thuế thu nhập hiện
hành phải nộp.
53.Trong một số trường hợp, doanh nghiệp được quyền bù trừ trên cơ sở
thuần chỉ cho một số năm nhất định. Trường hợp này, doanh nghiệp phải trình bày
biểu thời gian bù trừ chi tiết để xem xét liệu thuế thu nhập hoãn lại phải trả
có làm tăng các khoản thanh toán thuế trong cùng một kỳ mà một tài sản thuế thu
nhập hoãn lại của một đơn vị chịu thuế khác sẽ làm giảm các khoản thanh toán của
đơn vị chịu thuế thứ hai.
Chi phí thuế
Chi phí (hoặc thu nhập) thuế thu nhập liên quan đến lãi hoặc lỗ từ các
hoạt động kinh doanh thông thường
54.Chi phí (hoặc thu nhập) thuế
thu nhập liên quan đến lãi hoặc lỗ từ các hoạt động kinh doanh thông thường phải
được trình bày trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh.
Chênh lệch tỷ giá từ thuế thu nhập hoãn lại phải trả ở nước ngoài hoặc
tài sản thuế thu nhập hoãn lại ở nước ngoài
55.Chuẩn mực kế toán số 10 “ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ giá hối đoái”
quy định một số khoản chênh lệch tỷ giá hối đoái phải được hạch toán vào thu
nhập hoặc chi phí nhưng không quy định cụ thể về trình bày các khoản chênh lệch
này trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Do đó, chênh lệch tỷ giá từ thuế
thu nhập hoãn lại phải trả ở nước ngoài hoặc tài sản thuế thu nhập hoãn lại ở
nước ngoài được ghi nhận vào Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và các chênh
lệch này có thể được phân loại là chi phí (hoặc thu nhập) thuế thu nhập hoãn lại
nếu việc trình bày này được coi là dễ hiểu cho người sử dụng báo cáo tài
chính.
Thuyết minh
56.Các thành phần chủ yếu của chi phí (hoặc thu nhập) thuế thu nhập
doanh nghiệp phải được trình bày riêng biệt.
57.Các thành phần chủ yếu của chi phí (hoặc thu nhập) thuế thu nhập
gồm:
Chi phí (hoặc thu nhập) thuế thu nhập hiện hành;
Các điều chỉnh trong năm cho thuế thu nhập hiện hành của các năm
trước;
Khoản chi phí (hoặc thu nhập) thuế thu nhập hoãn lại liên quan đến việc
hình thành và hoàn nhập các chênh lệch tạm thời;
Khoản chi phí (hoặc thu nhập) thuế thu nhập hoãn lại liên quan đến việc
thay đổi thuế suất hoặc qui định các loại thuế mới;
Khoản lợi ích phát sinh từ một khoản lỗ tính thuế chưa được ghi nhận
trước đây, một khoản ưu đãi thuế hoặc chênh lệch tạm thời của các năm trước được
dùng để giảm chi phí thuế thu nhập hiện hành;
Khoản lợi ích từ lỗ tính thuế chưa được ghi nhận trước đây, từ các ưu
đãi thuế hoặc chênh lệch tạm thời của các năm trước được dùng để giảm chi phí
thuế thu nhập hoãn lại;
Chi phí thuế thu nhập hoãn lại phát sinh từ việc ghi giảm, hay hoàn nhập
của khoản ghi giảm năm trước, của tài sản thuế thu nhập hoãn lại được đề cập ở
đoạn 38.
58.Các mục sau đây cần được giải trình riêng
rẽ
Tổng số thuế thu nhập hiện hành và thuế thu nhập hoãn lại liên quan đến
các khoản mục được ghi nhận vào vốn chủ sở hữu;
Giải thích mối quan hệ giữa chi phí (hoặc thu nhập) thuế và lợi nhuận kế
toán theo một hoặc cả hai hình thức sau:
Đối chiếu bằng số giữa chi phí (hoặc thu nhập) thuế và tích số của lợi
nhuận kế toán nhân (x) với mức thuế suất áp dụng và cơ sở tính mức thuế suất áp
dụng đó; hoặc
Đối chiếu bằng số giữa thuế suất hiệu quả bình quân, mức thuế suất áp
dụng và cơ sở tính mức thuế suất áp dụng.
Giải thích thay đổi về các mức thuế suất áp dụng so sánh với niên độ kế
toán trước;
Giá trị (ngày đáo hạn, nếu có) của các chênh lệch tạm thời được khấu
trừ, lỗ tính thuế chưa sử dụng và các ưu đãi thuế chưa sử dụng mà chưa tài sản
thuế thu nhập hoãn lại nào được ghi nhận vào Bảng cân đối kế
toán;
Chênh lệch tạm thời, mỗi loại lỗ tính thuế chưa sử dụng cũng như các ưu
đãi thuế chưa sử dụng;
Giá trị của tài sản thuế thu nhập hoãn lại và thuế thu nhập hoãn lại
phải trả được ghi nhận trên Bảng cân đối kế toán của từng năm sử
dụng;
Giá trị thu nhập hoặc chi phí thuế hoãn lại được ghi nhận vào Báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh, nếu điều này không được phản ánh rõ từ các thay
đổi của các giá trị được ghi nhận trong Bảng cân đối kế toán;
và
Đối với các trường hợp ngừng
hoạt động, chi phí thuế liên quan tới:
i) Lãi hoặc lỗ do ngừng hoạt động; và
ii)Lãi hoặc lỗ trong năm của các trường hợp ngừng hoạt động, cùng với
các giá trị tương ứng của mỗi năm trước được trình bày.
59.Một doanh nghiệp phải trình
bày giá trị của tài sản thuế thu nhập hoãn lại và bằng chứng cho việc ghi nhận,
khi:
Việc sử dụng tài sản thuế thu nhập hoãn lại phụ thuộc vào lợi nhuận tính
thuế trong tương lai vượt quá mức lợi nhuận phát sinh từ việc hoàn nhập các
chênh lệch tạm thời chịu thuế hiện tại; và
Doanh nghiệp chịu lỗ trong năm hiện hành hoặc năm trước do qui định pháp
lý về thuế mà tài sản thuế hoãn lại có liên quan.
60.Nội dung giải trình theo quy định tại đoạn 58 (c) cho phép người sử
dụng báo cáo tài chính hiểu được liệu mối quan hệ giữa chi phí (hoặc thu nhập)
thuế và lợi nhuận kế toán là bình thường hay bất thường và hiểu được các yếu tố
quan trọng có thể ảnh hưởng đến mối quan hệ này trong tương lai. Mối quan hệ
giữa chi phí (hoặc thu nhập) thuế và lợi nhuận kế toán có thể bị ảnh hưởng bởi
các nhân tố như thu nhập được miễn thuế, chi phí không được khấu trừ khi xác
định lợi nhuận tính thuế (lỗ tính thuế), ảnh hưởng của lỗ tính thuế và thuế suất
ngoài nước.
61.Khi trình bày mối quan hệ giữa
chi phí (hoặc thu nhập) thuế và lợi nhuận kế toán theo thuế suất hiện hành sẽ
cung cấp thông tin tốt nhất cho người sử dụng báo cáo tài chính của doanh
nghiệp.
62.Mức thuế suất hiệu quả bình quân là lợi nhuận kế toán chia cho chi
phí (hoặc thu nhập) thuế.
63.Thường là không thực tế khi tính thuế thu nhập hoãn lại phải trả chưa
được ghi nhận phát sinh từ khoản đầu tư vào các công ty con, chi nhánh, công ty
liên kết và góp vốn vào các liên doanh. Chuẩn mực này quy định doanh nghiệp cần
phải trình bày tổng số các chênh lệch tạm thời nhưng không phải trình bày thuế
thu nhập hoãn lại phải trả. Doanh nghiệp được khuyến khích trình bày giá trị các
khoản thuế thu nhập hoãn lại phải trả chưa được ghi nhận để giúp những người sử
dụng báo cáo tài chính có thể thấy được các thông tin trên là hữu
ích.
64.Nếu các thay đổi về thuế suất hoặc luật thuế được ban hành sau ngày
kết thúc niên độ kế toán, doanh nghiệp có thể trình bày bất kỳ ảnh hưởng quan
trọng nào của các thay đổi này đối với tài sản thuế thu nhập hoãn lại và thuế
thu nhập hoãn lại phải trả và thuế thu nhập hiện hành của doanh nghiệp (xem
Chuẩn mực kế toán số 23 “Các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc kỳ kế toán
năm”)./.
TRÌNH BÀY BỔ SUNG BÁO CÁO
TÀI CHÍNH CỦA CÁC NGÂN HÀNG VÀ TỔ CHỨC TÀI CHÍNH TƯƠNG TỰ
(Ban hành và công bố theo
Quyết định số 12/2005/QĐ-BTC ngày 15 tháng 02 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính)
01. Mục đích của chuẩn
mực này là quy định và hướng dẫn việc trình bày bổ sung các thông tin cần thiết
trong báo cáo tài chính của các Ngân hàng và tổ chức tài chính tương tự.
02. Chuẩn mực này áp dụng
cho các Ngân hàng và Tổ chức tài chính tương tự (sau đây gọi chung là Ngân hàng)
bao gồm các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, các tổ
chức tài chính tương tự có hoạt động chính là nhận tiền gửi, đi vay với mục đích
để cho vay và đầu tư trong phạm vi hoạt động của ngân hàng theo quy định của
Luật các Tổ chức tín dụng và các văn bản pháp luật khác về hoạt động ngân hàng.
03. Chuẩn mực này hướng
dẫn việc trình bày những thông tin cần thiết trong báo cáo tài chính riêng và
báo cáo tài chính hợp nhất của các Ngân hàng. Bên cạnh đó cũng khuyến khích việc
trình bày trên thuyết minh báo cáo tài chính những thông tin về kiểm soát khả
năng thanh toán và kiểm soát rủi ro của các Ngân hàng. Đối với những tập đoàn có
hoạt động ngân hàng thì chuẩn mực này được áp dụng cho các hoạt động đó trên cơ
sở hợp nhất.
04.Chuẩn mực này bổ sung
cho các chuẩn mực kế toán khác áp dụng cho các Ngân hàng trừ khi chuẩn mực kế
toán và các quy định khác có điều khoản ngoại trừ.
CHÍNH SÁCH KẾ TOÁN
05.Để phù hợp với quy
định của Chuẩn mực số 21 "Trình bày báo cáo tài chính" và để giúp người sử dụng
hiểu được cơ sở lập báo cáo tài chính của Ngân hàng, các chính sách kế toán liên
quan đến các khoản mục sau đây phải được trình bày:
a) Ghi nhận các loại thu
nhập chủ yếu (xem đoạn 07 và đoạn 08);
b) Định giá chứng khoán
đầu tư và chứng khoán kinh doanh;
c) Phân biệt các giao dịch, sự kiện khác dẫn đến việc ghi nhận tài sản
và nợ phải trả trên Bảng cân đối kế toán và những giao dịch, sự kiện chỉ làm
tăng nghĩa vụ nợ tiềm ẩn và các cam kết (xem đoạn 20, 21,
22);
d) Cơ sở xác định tổn
thất các khoản cho vay và ứng trước và cơ sở xoá sổ các khoản cho vay và ứng
trước không có khả năng thu hồi (xem các đoạn từ 36 đến
40);
e) Cơ sở xác định chi phí
phát sinh từ các rủi ro chung trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng và phương
pháp hạch toán đối với các chi phí đó (xem đoạn 41, 42,
43).
BÁO CÁO KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
06.Báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng phải trình bày các khoản thu nhập và chi phí theo
bản chất của chúng và phải trình bày giá trị các loại thu nhập và chi phí chủ
yếu.
07.Ngoài các yêu cầu của
chuẩn mực kế toán khác, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hay Bản thuyết minh báo cáo tài
chính của Ngân hàng phải trình bày tối thiểu các khoản mục thu nhập, chi phí sau
đây:
Thu nhập lãi và các khoản
thu nhập tương tự;
Chi phí lãi và các chi
phí tương tự;
Lãi được chia từ góp vốn
và mua cổ phần;
Thu phí hoạt động dịch
vụ;
Phí và chi phí hoa
hồng;
Lãi hoặc lỗ thuần từ kinh
doanh chứng khoán kinh doanh;
Lãi hoặc lỗ thuần từ kinh
doanh chứng khoán đầu tư;
Lãi hoặc lỗ thuần hoạt
động kinh doanh ngoại hối;
Thu nhập từ hoạt động
khác;
Tổn thất khoản cho vay và
ứng trước;
Chi phí quản lý;
và
Chi phí hoạt động
khác.
08.Các loại thu nhập chủ yếu phát sinh từ hoạt động của Ngân hàng bao
gồm: Thu nhập lãi, thu phí dịch vụ, hoa hồng và các kết quả kinh doanh khác. Mỗi
loại thu nhập được trình bày theo các chỉ tiêu riêng biệt để giúp người sử dụng
có thể đánh giá được tình hình hoạt động của Ngân hàng. Việc trình bày như vậy
để bổ sung thêm thông tin về các nguồn thu nhập theo yêu cầu của Chuẩn mực số 28
"Báo cáo bộ phận".
09.Các loại chi phí chủ yếu phát sinh từ hoạt động của Ngân hàng bao
gồm: Chi phí lãi, chi phí hoa hồng, chi phí dự phòng rủi ro tổn thất các khoản
cho vay và ứng trước, chi phí dự phòng giảm giá các khoản đầu tư và chi phí quản
lý. Mỗi loại chi phí được trình bày theo chỉ tiêu riêng giúp người sử dụng đánh
giá được tình hình hoạt động của Ngân hàng.
10.Các khoản mục thu nhập
và chi phí không được bù trừ, ngoại trừ trường hợp những khoản mục liên quan đến
tài sản và nợ phải trả, tài sản để đảm bảo rủi ro được bù trừ theo quy định tại
đoạn 19.
11.Sự bù trừ trong trường
hợp không liên quan đến các hợp đồng tự bảo hiểm, tài sản và nợ phải trả được bù
trừ theo quy định tại đoạn 19 sẽ gây khó khăn cho người sử dụng trong việc đánh
giá hoạt động của Ngân hàng, ngược lại nó sẽ giúp phân tích được cách phân loại
các tài sản chi tiết.
12.Lãi và lỗ phát sinh từ
mỗi giao dịch dưới đây được báo cáo trên cơ sở thuần:
a) Thanh lý chứng khoán
kinh doanh;
b) Thanh lý chứng khoán
đầu tư;
c) Hoạt động kinh doanh
ngoại hối.
13.Thu nhập lãi và chi
phí lãi được trình bày riêng rẽ nhằm cung cấp thông tin dễ hiểu hơn về các yếu
tố cấu thành lãi thuần và lý do của sự thay đổi lãi thuần.
14. Lãi thuần là chênh
lệch của lãi suất và giá trị khoản đi vay và cho vay. Lãi thuần rất hữu ích nếu
Ban Lãnh đạo diễn giải lãi suất trung bình, giá trị trung bình của tài sản sinh
lời và giá trị trung bình của các khoản nợ phát sinh trong kỳ. Trường hợp được
Nhà nước trợ giúp về lãi suất thì báo cáo tài chính phải trình bày quy mô của
các khoản tín dụng ưu đãi này và ảnh hưởng của chúng đến lãi
thuần.
Bảng cân đối kế toán
15. Trong Bảng cân đối kế
toán, Ngân hàng phải trình bày các nhóm tài sản và nợ phải trả theo bản chất và
sắp xếp theo thứ tự phản ánh tính thanh khoản giảm dần của
chúng.
16. Ngoài các yêu cầu của
chuẩn mực kế toán khác, Bảng cân đối kế toán hoặc Bản thuyết minh báo cáo tài
chính của Ngân hàng phải trình bày tối thiểu các khoản mục tài sản và nợ phải
trả sau đây:
Khoản mục tài sản:
- Tiền mặt, vàng bạc, đá
quý;
- Tiền gửi tại Ngân hàng
Nhà nước;
- Tín phiếu Kho bạc và
các chứng chỉ có giá khác dùng tái chiết khấu với Ngân hàng Nhà nước;
- Trái phiếu Chính phủ và
các chứng khoán khác được nắm giữ với mục đích thương
mại;
- Tiền gửi tại các Ngân
hàng khác, cho vay và ứng trước cho các tổ chức tín dụng và các tổ chức tài
chính tương tự khác;
- Tiền gửi khác trên thị
trường tiền tệ;
- Cho vay và ứng trước
cho khách hàng;
- Chứng khoán đầu tư;
- Góp vốn đầu
tư.
Khoản mục nợ phải trả:
- Tiền gửi của các ngân
hàng và các tổ chức tương tự khác;
- Tiền gửi từ thị trường
tiền tệ;
- Tiền gửi của khách
hàng;
- Chứng chỉ tiền
gửi;
- Thương phiếu, hối phiếu
và các chứng chỉ nhận nợ;
- Các khoản đi vay
khác.
17. Cách phân loại tài
sản và nợ phải trả hữu ích nhất của Ngân hàng là phân loại chúng theo bản chất
và sắp xếp theo tính thanh khoản tương ứng với kỳ đáo hạn của chúng. Các khoản
mục tài sản, nợ phải trả ngắn hạn và dài hạn không được trình bày riêng biệt vì
phần lớn tài sản và nợ phải trả của Ngân hàng có thể được thực hiện hoặc thanh
toán trong tương lai gần.
18. Sự phân biệt giữa số dư tiền gửi của ngân hàng tại các Ngân hàng
khác và tại các đơn vị khác trên thị trường tiền tệ với tiền gửi của khách hàng
là thông tin thiết thực vì cho biết mối liên hệ, sự độc lập của Ngân hàng với
các Ngân hàng khác cũng như với thị trường tiền tệ. Do vậy các Ngân hàng phải
trình bày tách biệt các khoản:
a) Số dư tiền gửi tại
Ngân hàng Nhà nước;
b) Các khoản tiền gửi tại
các Ngân hàng khác;
c) Các khoản tiền gửi tại
các nơi khác trên thị trường tiền tệ;
d) Các khoản tiền gửi của
các Ngân hàng khác;
e) Các khoản tiền gửi của
các đối tượng khác trên thị trường tiền tệ.
19. Ngân hàng không được
bù trừ bất kỳ khoản mục tài sản và nợ phải trả với các khoản mục tài sản và nợ
phải trả khác trong Bảng cân đối kế toán, trừ trường hợp pháp luật quy định cho
phép bù trừ và việc bù trừ thể hiện dự kiến điều chuyển thanh lý hoặc quyết toán
khoản tài sản và nợ phải trả.
Nghĩa vụ nợ tiềm ẩn và
cam kết trình bày ngoài Bảng cân đối kế toán
20. Ngân hàng phải trình
bày các nghĩa vụ nợ tiềm ẩn và các cam kết sau:
a) Nội dung và giá trị của các cam kết cho vay không thể huỷ ngang
(Trường hợp huỷ ngang các cam kết không thể huỷ ngang thì phải chịu
phạt)
b) Nội dung và giá trị của các nghĩa vụ nợ tiềm ẩn và các cam kết được
trình bày ngoài Bảng cân đối kế toán bao gồm các khoản liên quan
đến:
i) Các khoản tín dụng gián tiếp, như: Các khoản bảo lãnh nợ, bảo lãnh
thanh toán và thư tín dụng dự phòng có vai trò như là các khoản bảo lãnh tài
chính cho các khoản vay và chứng khoán;
ii) Các nghĩa vụ nợ tiềm
ẩn liên quan đến các nghiệp vụ kinh tế, như: Bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo
lãnh dự thầu, các khoản đảm bảo khác và thư tín dụng dự phòng liên quan đến các
nghiệp vụ đặc biệt;
iii)Các nghĩa vụ nợ tiềm ẩn ngắn hạn phát sinh từ việc giao nhận hàng
hoá, như: Thư tín dụng, chứng từ có sử dụng hàng hoá giao nhận làm tài sản đảm
bảo;
iv) Các cam kết khác và
cam kết bảo lãnh phát hành chứng từ có giá khác.
21. Nhiều Ngân hàng cũng thực
hiện các giao dịch không được ghi nhận là tài sản hay nợ phải trả trên Bảng cân
đối kế toán nhưng chúng làm phát sinh các nghĩa vụ nợ tiềm ẩn và các cam kết.
Những khoản mục này thường có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh và
có mối liên quan chặt chẽ với mức độ rủi ro của các Ngân hàng. Những khoản mục
này có thể làm tăng, giảm các khoản rủi ro khác, (Như: Nghiệp vụ phòng ngừa rủi
ro về tài sản và nợ phải trả trên Bảng cân đối kế toán).
22. Người sử dụng thông
tin trên báo cáo tài chính của Ngân hàng cần phải biết về các nghĩa vụ nợ tiềm
ẩn và các cam kết không huỷ ngang của Ngân hàng để đánh giá tính thanh khoản,
khả năng trả nợ và khả năng cố hữu của các khoản lỗ tiềm tàng.
Kỳ hạn của tài sản và nợ phải trả
| |
23. |
Ngân hàng phải phân tích
các khoản mục tài sản và nợ phải trả theo các nhóm có kỳ hạn phù hợp dựa trên
thời gian còn lại tính từ ngày khoá sổ lập Báo cáo tài chính đến ngày đáo hạn
theo điều khoản hợp đồng.
|
24. |
Sự phù hợp và sự không
phù hợp có kiểm soát về kỳ hạn và lãi suất giữa tài sản và nợ phải trả có ý
nghĩa quan trọng trong quản lý của Ngân hàng. Trong thực tế rất hiếm Ngân hàng
tạo được sự phù hợp hoàn hảo, bởi vì các giao dịch thường có kỳ hạn không chắc
chắn và thuộc rất nhiều loại hình nghiệp vụ khác nhau trong hoạt động kinh
doanh. Tình trạng không phù hợp có thể làm tăng khả năng sinh lời nhưng cũng có
thể làm tăng rủi ro tổn thất.
|
25. |
Kỳ hạn của tài sản và nợ
phải trả và khả năng thay thế các khoản nợ chịu lãi khi đến hạn thanh toán với
một mức phí có thể chấp nhận được là yếu tố quan trọng trong việc đánh giá tính
thanh khoản và mức độ rủi ro khi có thay đổi lãi suất và tỷ giá hối đoái của
Ngân hàng. Để cung cấp thông tin thích hợp cho việc đánh giá tính thanh khoản
thì tối thiểu Ngân hàng phải phân tích được tài sản và nợ phải trả theo các nhóm
kỳ hạn thích hợp.
|
26. |
Việc phân nhóm theo kỳ hạn các tài sản và nợ phải trả cụ thể rất khác
nhau giữa các Ngân hàng và tuỳ thuộc vào loại tài sản và nợ phải trả, như một số
kỳ hạn thường được sử dụng sau: Dưới 1
tháng; Từ 1 tháng đến 3
tháng; Từ trên 3 tháng đến 1
năm; Từ trên 1 năm đến 3 năm;
(e) Từ trên 3 năm đến 5
năm; và (f) Từ trên 5 năm trở
lên. Thông thường những kỳ hạn
này được kết hợp với nhau, ví dụ: Trường hợp cho vay và ứng trước có thể được
phân ra kỳ hạn dưới 1 năm và trên 1 năm. Nếu việc hoàn trả kéo dài trong nhiều
kỳ, thì mỗi lần thanh toán được phân bổ theo kỳ hạn được thoả thuận trong hợp
đồng tín dụng hoặc được dự kiến thanh toán hoặc trả nợ.
|
27. |
Kỳ hạn áp dụng cho việc
phân loại kỳ hạn tài sản và nợ phải trả đòi hỏi phải nhất quán với nhau. Điều
này chỉ ra một cách rõ ràng mức độ phù hợp về kỳ hạn của tài sản và nợ phải trả
và sự phụ thuộc của Ngân hàng vào các nguồn vốn có thể huy động nhanh.
|
28. |
Các kỳ hạn có thể được
xác định theo những thời hạn sau: Thời gian còn lại đến
ngày phải trả; Kỳ hạn gốc đến ngày phải
trả; hoặc Thời gian còn lại đến
ngày lãi suất thay đổi. Việc phân tích tài sản và
nợ phải trả dựa vào khoảng thời gian còn lại đến ngày đáo hạn sẽ cung cấp cơ sở
tốt nhất để đánh giá khả năng thanh khoản của Ngân hàng. Ngân hàng cũng có thể
trình bày kỳ hạn phải trả dựa vào kỳ hạn gốc để cung cấp thông tin về nguồn vốn
và chiến lược kinh doanh. Ngoài ra Ngân hàng có thể trình bày các nhóm kỳ hạn
đến hạn tiếp theo dựa trên thời gian còn lại đến kỳ thay đổi lãi suất tiếp theo
để phản ánh mức độ rủi ro lãi suất. Ban Giám đốc có thể cung cấp thông tin trên
báo cáo tài chính về khả năng thay đổi lãi suất và cách thức quản lý và kiểm
soát rủi ro lãi suất đó.
|
29. |
Trên thực tế, những khoản
tiền gửi và ứng trước không kỳ hạn từ Ngân hàng thường có thời gian hoàn trả dài
hơn thời gian của hợp đồng tín dụng. Ngày thực tế hoàn trả có hiệu lực thường
muộn hơn ngày ghi trong hợp đồng. Ngân hàng cần phải trình bày việc phân tích
ngày phải trả theo hợp đồng mặc dù không phải là kỳ hạn thực tế bởi vì kỳ đáo
hạn ghi trong hợp đồng phản ánh những rủi ro có tính thanh khoản liên quan tới
tài sản và nợ phải trả của Ngân hàng.
|
30. |
Một số tài sản của Ngân
hàng không có kỳ hạn thanh toán theo hợp đồng. Kỳ hạn mà những tài sản này được
giả định thanh toán thường được coi là ngày tài sản sẽ được thực
hiện.
|
31. |
Việc đánh giá khả năng
thanh khoản của Ngân hàng dựa vào việc công khai kỳ hạn các tài sản và nợ phải
trả cần được xem xét trong bối cảnh cụ thể của Ngân hàng, bao gồm cả sự sẵn có
các nguồn vốn huy động đối với Ngân hàng.
|
32. |
Để cung cấp cho người sử dụng sự hiểu biết đầy đủ về các nhóm kỳ hạn của
tài sản và nợ phải trả, khi trình bày báo cáo tài chính cần bổ sung thêm thông
tin về khả năng có thể hoàn trả trước trong thời gian còn lại. Do vậy, báo cáo
tài chính cần phải cung cấp thông tin, kỳ hạn thực tế và cách thức quản lý, kiểm
soát rủi ro liên quan đến đặc trưng của các kỳ hạn khác nhau và lãi suất.
|
Trình bày sự tập trung
của tài sản, nợ phải trả và khoản mục ngoài Bảng cân đối kế
toán
| |
33. |
Các Ngân hàng phải trình
bày trên báo cáo tài chính bất kỳ sự tập trung đáng kể nào của các khoản mục tài
sản, nợ phải trả và khoản mục ngoài Bảng cân đối kế toán. Việc trình bày phải
phân theo từng khu vực địa lý, từng nhóm khách hàng, nhóm ngành kinh tế hoặc
những tập trung khác của rủi ro. Ngân hàng cũng cần trình bày trạng thái ngoại
tệ thuần lớn.
|
34. |
Ngân hàng phải trình bày
sự tập trung đáng kể về tài sản và nợ phải trả của mình. Việc trình bày này rất
có ích để chỉ ra những rủi ro tiềm tàng có trong giao dịch thanh toán các tài
sản và nợ phải trả của Ngân hàng. Những trình bày trên phải theo từng khu vực
địa lý, nhóm khách hàng, nhóm ngành kinh tế hoặc với những rủi ro trọng yếu phản
ánh đúng thực trạng của Ngân hàng. Sự phân tích và giải thích tương tự đối với
các khoản mục ngoài Bảng cân đối kế toán cũng rất quan trọng. Sự tập trung đáng
kể về tài sản và nợ phải trả của Ngân hàng là các thông tin bộ phận phải được
trình bày phù hợp với yêu cầu của Chuẩn mực kế toán số 28 “Báo cáo bộ
phận”.
|
35.
|
Việc trình bày rủi ro của
số ngoại tệ thuần lớn cũng rất hữu ích để chỉ ra sự rủi ro của khoản vay phát
sinh từ thay đổi tỷ giá hối
đoái. |
Tổn thất của khoản cho
vay và ứng trước
36. Báo cáo tài chính của Ngân hàng phải trình
bày:
Chính sách kế toán làm cơ sở cho việc ghi nhận chi phí hoặc xoá sổ các
khoản cho vay và ứng trước không có khả năng thu hồi;
Chi tiết về những thay đổi dự phòng tổn thất các khoản cho vay và ứng
trước trong kỳ. Ngân hàng phải trình bày riêng biệt giá trị được ghi nhận là chi
phí trong kỳ đối với khoản dự phòng tổn thất các khoản cho vay và ứng trước, giá
trị được ghi nhận là chi phí trong kỳ đối với các khoản cho vay và ứng trước
được xoá sổ và số tiền thu hồi các khoản cho vay và ứng trước đã xoá sổ trước
đây nay thu hồi được;
c) Tổng giá trị dự phòng
rủi ro tổn thất khoản cho vay và ứng trước tại ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo
tài chính.
37. Giá trị dự phòng rủi ro tổn thất ngoài các khoản tổn thất của các khoản cho
vay và ứng trước được ghi nhận theo quy định tại Chuẩn mực kế toán “Công cụ tài
chính” thì Ngân hàng phải hạch toán vào lợi nhuận giữ lại. Việc hoàn nhập các
khoản dự phòng rủi ro này được hạch toán vào lợi nhuận giữ lại và không được hạch toán vào lãi, lỗ trong
kỳ.
38. Ngân hàng có thể được lập dự phòng tổn thất đối với các khoản cho
vay và ứng trước ngoài các khoản dự phòng tổn thất đã hạch toán theo Chuẩn mực
kế toán “Công cụ tài chính”. Các khoản dự phòng này được trích lập từ lợi nhuận
sau thuế mà không được tính vào chi phí trong kỳ và khi hoàn nhập khoản dự phòng
đã lập này cũng được ghi tăng lợi nhuận sau thuế mà không được hạch toán vào Báo
cáo kết quả hoạt động kinh doanh trong kỳ.
39. Những người sử dụng báo cáo tài chính của Ngân hàng cần biết về các
khoản tổn thất khoản cho vay và ứng trước ảnh hưởng đến tình hình tài chính cũng
như quá trình hoạt động của Ngân hàng được trình bày trong báo cáo tài chính.
Điều này giúp họ đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực của Ngân hàng. Ngân
hàng phải trình bày tổng số giá trị dự phòng tổn thất khoản cho vay và ứng trước
tại ngày khoá sổ lập báo cáo tài chính và các thay đổi dự phòng trong kỳ. Ngân
hàng phải trình bày riêng rẽ các thay đổi dự phòng, bao gồm cả các khoản trước
đây đã được xóa sổ nay thu hồi được.
40. Các khoản cho vay và ứng trước khi không thể thu hồi thì sẽ được xóa
sổ và được bù đắp bằng khoản dự phòng tổn thất khoản cho vay. Chỉ được thực hiện
xoá sổ khi tất cả các thủ tục pháp lý được hoàn tất và giá trị của khoản tổn
thất đã được xác định cuối cùng. Trong một số trường hợp, chúng có thể được xóa
sổ sớm hơn, ví dụ: Trường hợp người đi
vay không trả được một đồng lãi hoặc tiền gốc nào mặc dù còn hạn hoặc đã quá hạn
một thời gian cụ thể. Các khoản cho vay và ứng trước không thể thu hồi, được xoá
sổ vào thời điểm khác nhau; Tổng số tiền vay và ứng trước và dự phòng tổn thất
có thể rất khác nhau. Do đó, Ngân hàng phải trình bày chính sách xóa sổ các
khoản cho vay và ứng trước không có khả năng thu hồi.
Dự phòng rủi ro chung trong hoạt động của Ngân
hàng
41. Bất kỳ khoản dự phòng nào lập cho các rủi ro chung trong hoạt động
của Ngân hàng, bao gồm các khoản lỗ dự kiến trong tương lai và các khoản rủi ro
không thể dự kiến khác hoặc các nghĩa vụ nợ tiềm ẩn đều phải được trình bày
riêng rẽ như là phần trích lập từ lợi nhuận sau thuế. Các khoản hoàn nhập dự
phòng đã lập được ghi tăng lợi nhuận giữ lại mà không được tính vào lãi, lỗ
trong kỳ.
42. Ngân hàng được lập dự phòng cho các khoản rủi ro chung trong hoạt
động của Ngân hàng, bao gồm các khoản tổn thất dự kiến trong tương lai hoặc các
rủi ro khác không dự kiến được, ngoài các khoản dự phòng cho các khoản tổn thất
cho vay và ứng trước được xác định theo đoạn 38. Ngân hàng cũng được lập dự
phòng cho các tổn thất đột xuất. Dự phòng cho các rủi ro chung trong hoạt động
của Ngân hàng và các tổn thất đột xuất không đáp ứng điều kiện ghi nhận theo quy
định của Chuẩn mực kế toán "Dự phòng, nợ phải trả và tài sản ngẫu nhiên". Do đó,
Ngân hàng phải trích lập các khoản dự phòng đó từ lợi nhuận sau thuế. Điều này
là cần thiết để tránh làm tăng nợ phải trả, làm giảm tài sản hoặc các khoản dự
phòng ngầm dẫn đến làm sai lệch các chỉ tiêu thu nhập thuần và vốn chủ sở
hữu.
43. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh sẽ không thể hiện thông tin
thích hợp và trung thực về tình hình hoạt động của Ngân hàng nếu lãi (lỗ) trong
kỳ chịu ảnh hưởng của các chỉ tiêu, như: Các khoản dự phòng ngầm cho các rủi ro
chung trong hoạt động của Ngân hàng; các khoản tổn thất hoặc các khoản hoàn nhập
số dự phòng ngầm đã lập. Tương tự như vậy, Bảng cân đối kế toán cũng không thể
cung cấp những thông tin thích hợp và trung thực về tình trạng tài chính của
Ngân hàng nếu Bảng cân đối kế toán có các chỉ tiêu thể hiện đánh giá tăng nợ
phải trả và đánh giá giảm tài sản hoặc các khoản dự phòng
ngầm.
Tài sản được sử dụng để đảm bảo
44. Ngân hàng phải trình bày trên Bản thuyết minh báo cáo tài chính tổng
giá trị khoản nợ phải trả được đảm bảo, tính chất và số tiền sinh lời của các
tài sản dùng để thế chấp.
45. Ngân hàng có thể được
yêu cầu phải sử dụng tài sản thế chấp để đảm bảo cho các khoản huy động vốn hay
khoản nợ khác. Những khoản này thường có giá trị đáng kể do đó sẽ có ảnh hưởng
lớn đến việc đánh giá tình hình tài chính của Ngân hàng.
Hoạt động nhận uỷ
thác
46. Ngân hàng thường đóng
vai trò là người nhận uỷ thác cho vay dẫn đến việc nắm giữ hoặc đại diện cho tài
sản của các cá nhân, người uỷ thác và các Ngân hàng khác. Cung cấp các thông tin
về uỷ thác cũng như mối quan hệ tương tự là một chứng minh hợp pháp rằng những
tài sản này không phải là tài sản của Ngân hàng và do vậy không nằm trong Bảng
cân đối kế toán. Nếu Ngân hàng có các hoạt động nhận uỷ thác quan trọng thì phải
trình bày và phải chỉ ra quy mô của hoạt động đó trong Bản thuyết minh báo cáo
tài chính. Những khoản nợ tiềm tàng nếu xảy ra tổn thất sẽ liên quan tới trách
nhiệm người nhận ủy thác nó. Với mục đích này, hoạt động nhận uỷ thác không bao
gồm các chức năng bảo đảm an toàn.
Giao dịch các bên liên
quan
47. Một số giao dịch nhất
định giữa các bên liên quan có thể được thực hiện theo các điều khoản khác so
với các bên không liên quan, ví dụ trong cùng một hoàn cảnh như nhau, một ngân
hàng có thể cấp một khoản tín dụng có hạn mức lớn hơn hoặc áp dụng một tỷ lệ lãi
thấp hơn với một bên liên quan so với hạn mức hoặc tỷ lệ lãi suất áp dụng cho
một bên không liên quan. Tương tự như vậy, các khoản cho vay hay tiền gửi giữa
các bên liên quan có thể được thực hiện nhanh hơn, với thủ tục đơn giản hơn so
với các bên không liên quan. Khi các giao dịch với các bên liên quan phát sinh
trong hoạt động kinh doanh thông thường của ngân hàng thì thông tin về các giao
dịch này là phù hợp và cần thiết cho người sử dụng báo cáo tài chính và phải
được trình bày theo yêu cầu của Chuẩn mực kế toán số 26 “Thông tin về các bên
liên quan”.
48. Khi một ngân hàng
thực hiện giao dịch với các bên liên quan, phải trình bày bản chất các mối quan
hệ giữa các bên liên quan cũng như đặc điểm về nghiệp vụ và số dư hiện có để
người đọc có thể hiểu được các ảnh hưởng trọng yếu và các mối quan hệ đối với
báo cáo tài chính của ngân hàng. Các yếu tố thường được trình bày theo yêu cầu
của Chuẩn mực kế toán số 26 bao gồm cả chính sách tín dụng của ngân hàng với các
bên liên quan.
Ngân hàng phải trình bày
về giao dịch với các bên liên quan theo các thông tin định lượng
sau:
(a) Từng khoản cho vay và
ứng trước, các khoản tiền gửi, chấp nhận thanh toán và các kỳ phiếu phát hành
đồng thời với các thông tin: Tổng số dư tại ngày bắt đầu và ngày kết thúc kỳ hạn
và các biến động của các khoản tạm ứng, tiền gửi, trả nợ và các biến động khác
trong kỳ;
(b) Từng loại thu nhập,
chi phí và hoa hồng phải trả chủ yếu;
(c) Tổng số chi phí do
thất thoát khoản cho vay và ứng trước và tổng số dự phòng tại ngày khoá sổ lập
báo cáo tài chính; và
(d) Các cam kết và các
nghĩa vụ nợ tiềm ẩn không thể huỷ ngang phát sinh từ các khoản mục ngoài Bảng
cân đối kế toán./.
CÁC SỰ KIỆN PHÁT SINH SAU
NGÀY KẾT THÚC KỲ KẾ TOÁN NĂM
(Ban hành và công bố theo
Quyết định số 12/2005/QĐ-BTC ngày 15
tháng 02 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính)
QUY ĐỊNH CHUNG | |
01. |
Mục đích của chuẩn mực
này là quy định và hướng dẫn các trường hợp doanh nghiệp phải điều chỉnh báo cáo
tài chính, các nguyên tắc và phương pháp điều chỉnh báo cáo tài chính khi có
những sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm; giải trình về ngày
phát hành báo cáo tài chính và các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc kỳ kế
toán năm. Nếu các sự kiện xảy ra
sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm không phù hợp với nguyên tắc hoạt động liên tục
thì doanh nghiệp không được lập báo cáo tài chính trên cơ sở hoạt động liên
tục. |
02. |
Chuẩn mực này áp dụng cho
việc kế toán và trình bày thông tin về các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc
kỳ kế toán năm. |
03. |
Các thuật ngữ trong chuẩn
mực này được hiểu như sau: Các sự kiện phát sinh sau
ngày kết thúc kỳ kế toán năm: Là những sự kiện có ảnh
hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến báo cáo tài chính đã phát sinh trong khoảng
thời gian từ sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm đến ngày phát hành báo cáo tài
chính. Có hai loại sự kiện phát
sinh sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm: (a) Các sự kiện phát sinh sau
ngày kết thúc kỳ kế toán năm cần điều chỉnh: Là những sự kiện phát sinh sau
ngày kết thúc kỳ kế toán năm cung cấp bằng chứng về các sự việc đã tồn tại trong
năm tài chính cần phải điều chỉnh trước khi lập báo cáo tài
chính. (b) Các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc kỳ
kế toán năm không cần điều chỉnh: Là những sự kiện phát sinh sau ngày kết
thúc kỳ kế toán năm cung cấp bằng chứng về các sự việc đã tồn tại trong năm tài
chính nhưng không phải điều chỉnh trước khi lập báo cáo tài
chính. Ngày phát hành báo cáo
tài chính: Là ngày, tháng, năm ghi trên báo cáo tài chính mà Giám đốc (hoặc người
được ủy quyền) của đơn vị kế toán ký duyệt báo cáo tài chính để gửi ra bên ngoài
doanh nghiệp. |
04. |
Qui trình phát hành báo
cáo tài chính phụ thuộc vào cơ cấu quản lý, yêu cầu và thủ tục cần tuân thủ về
lập, soát xét, kiểm tra và phát hành báo cáo tài
chính. |
05. |
Các sự kiện phát sinh sau
ngày kết thúc kỳ kế toán năm bao gồm tất cả các sự kiện phát sinh đến ngày phát
hành báo cáo tài chính.
|
Ghi nhận và xác định
Các sự kiện phát sinh sau
ngày kết thúc kỳ kế toán năm cần điều chỉnh | |
06. |
Doanh nghiệp phải điều
chỉnh các số liệu đã được ghi nhận trong báo cáo tài chính để phản ánh các sự
kiện phát sinh sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm cần điều
chỉnh. |
07. |
Ví dụ về các sự kiện phát
sinh sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm cần điều chỉnh đòi hỏi doanh nghiệp phải
điều chỉnh các số liệu đã ghi nhận trong Bảng cân đối kế toán hoặc ghi nhận
những khoản mục mà trước đó chưa được ghi nhận, gồm: (a) Kết luận của Toà án
sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm, xác nhận doanh nghiệp có những nghĩa vụ hiện
tại vào ngày kết thúc kỳ kế toán năm, đòi hỏi doanh nghiệp điều chỉnh khoản dự
phòng đã được ghi nhận từ trước; ghi nhận những khoản dự phòng mới hoặc ghi nhận
những khoản nợ phải thu, nợ phải trả mới. (b) Thông tin nhận được
sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm cung cấp bằng chứng về một tài sản bị tổn thất
trong kỳ kế toán năm, hoặc giá trị của khoản tổn thất được ghi nhận từ trước đối
với tài sản này cần phải điều chỉnh, ví dụ như: i - Khách hàng bị phá sản
sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm đã chứng minh khoản phải thu của khách hàng
trên Bảng cân đối kế toán cần phải điều chỉnh thành khoản lỗ trong
năm. ii - Hàng tồn kho được
bán sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm cung cấp bằng chứng về giá trị thuần có thể
thực hiện được vào ngày kết thúc kỳ kế toán năm của hàng tồn
kho. (c) Việc xác nhận sau
ngày kết thúc kỳ kế toán năm về giá gốc của tài sản đã mua hoặc số tiền thu được từ việc bán tài sản
trong kỳ kế toán năm. (d) Việc phát hiện những
gian lận và sai sót chỉ ra rằng báo cáo tài chính không được chính
xác. |
Các sự kiện phát sinh sau
ngày kết thúc kỳ kế toán năm không cần điều
chỉnh | |
08. |
Doanh nghiệp không phải
điều chỉnh các số liệu đã ghi nhận trong báo cáo tài chính về các sự kiện phát
sinh sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm không cần điều
chỉnh. |
09. |
Ví dụ về các sự kiện phát
sinh sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm không cần điều chỉnh như: Việc giảm giá
trị thị trường của các khoản đầu tư vốn góp liên doanh, các khoản đầu tư vào
công ty liên kết trong khoảng thời gian từ ngày kết thúc kỳ kế toán năm đến ngày
phát hành báo cáo tài chính. Sự giảm giá trị thị trường của các khoản đầu tư
thường không liên quan đến giá trị các khoản đầu tư vào ngày kết thúc kỳ kế toán
năm. Doanh nghiệp không phải điều chỉnh số liệu đã được ghi nhận trong Bảng cân
đối kế toán đối với các khoản đầu tư, tuy nhiên có thể bổ sung giải trình theo
quy định tại đoạn 19. |
Cổ
tức | |
10. |
Nếu cổ tức của cổ đông
được công bố sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm, doanh nghiệp không phải ghi nhận
các khoản cổ tức này như là các khoản nợ phải trả trên Bảng cân đối kế toán tại
ngày kết thúc kỳ kế toán năm. |
11. |
Nếu cổ tức được công bố
sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm nhưng trước ngày phát hành báo cáo tài chính,
thì khoản cổ tức này không phải ghi nhận là nợ phải trả trên Bảng cân đối kế
toán mà được trình bày trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính theo quy định tại
Chuẩn mực kế toán số 21 “Trình bày báo cáo tài
chính”. |
Hoạt động liên tục | |
12. |
Nếu Ban Giám đốc xác nhận
sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm có dự kiến giải thể doanh nghiệp, ngừng sản
xuất kinh doanh, thu hẹp đáng kể quy mô hoạt động hoặc phá sản thì doanh nghiệp
không được lập báo cáo tài chính trên cơ sở nguyên tắc hoạt động liên
tục. |
13. |
Nếu kết quả kinh doanh bị
giảm sút và tình hình tài chính xấu đi sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm thì phải
xem xét nguyên tắc hoạt động liên tục có còn phù hợp để lập báo cáo tài chính
hay không. Nếu nguyên tắc hoạt động liên tục không còn phù hợp để lập báo cáo
tài chính nữa thì doanh nghiệp phải thay đổi căn bản cơ sở kế toán chứ không
phải chỉ điều chỉnh số liệu đã ghi nhận theo cơ sở kế toán ban
đầu. |
14. |
Chuẩn mực kế toán số 21
"Trình bày báo cáo tài chính" quy định phải giải trình trong trường
hợp: a - Báo cáo tài chính
không được lập trên cơ sở nguyên tắc hoạt động liên tục. b - Ban Giám đốc nhận
thấy có vấn đề không chắc chắn trọng yếu liên quan đến các sự kiện hoặc điều
kiện dẫn đến những nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp.
Những sự kiện hoặc điều kiện quy định phải giải trình này có thể phát sinh sau
ngày kết thúc kỳ kế toán năm. |
Trình bày báo cáo tài chính | |
Ngày phát hành báo cáo
tài chính | |
15. |
Doanh nghiệp phải trình
bày ngày phát hành báo cáo tài chính và người quyết định phát hành. Nếu chủ sở
hữu doanh nghiệp hoặc người khác có thẩm quyền yêu cầu sửa đổi báo cáo tài chính
trước khi phát hành, doanh nghiệp phải trình bày việc
này. |
16. |
Điều quan trọng đối với
người sử dụng báo cáo tài chính là phải biết là báo cáo tài chính không phản ánh
các sự kiện phát sinh sau ngày phát hành. |
Trình bày về sự kiện tồn
tại trong kỳ kế toán năm | |
17. |
Nếu doanh nghiệp nhận
được thông tin sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm về các sự kiện tồn tại trong kỳ
kế toán năm, doanh nghiệp phải trình bày về các sự kiện này trên cơ sở xem xét
những thông tin mới. |
18. |
Trong một số trường hợp,
doanh nghiệp phải trình bày trong báo cáo tài chính để phản ánh thông tin nhận
được sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm, ngay cả khi thông tin này không ảnh hưởng
đến các số liệu đã trình bày trong báo cáo tài chính. Ví dụ: Sau ngày kết thúc
kỳ kế toán năm có bằng chứng về việc sẽ xảy ra một khoản nợ tiềm tàng đã tồn tại
trong kỳ kế toán năm. |
Các sự kiện phát sinh sau
ngày kết thúc kỳ kế toán năm không cần điều
chỉnh | |
19. |
Nếu các sự kiện không cần điều chỉnh phát sinh sau ngày kết thúc kỳ kế
toán năm là trọng yếu, việc không trình bày các sự kiện này có thể ảnh hưởng đến
quyết định kinh tế của người sử dụng khi dựa trên các thông tin của báo cáo tài
chính. Vì vậy doanh nghiệp phải trình bày đối với các sự kiện trọng yếu không
cần điều chỉnh về: (a) Nội dung và số liệu
của sự kiện; (b) ước tính ảnh hưởng về
tài chính, hoặc lý do không thể ước tính được các ảnh hưởng
này. |
20. |
Các sự kiện phát sinh sau
ngày kết thúc kỳ kế toán năm không cần điều chỉnh cần phải trình bày trên báo
cáo tài chính, như: (a) Việc hợp nhất kinh
doanh theo quy định của Chuẩn mực kế toán "Hợp nhất kinh doanh" hoặc việc thanh
lý công ty con của tập đoàn; (b) Việc công bố kế hoạch
ngừng hoạt động, việc thanh lý tài sản hoặc thanh toán các khoản nợ liên quan
đến ngừng hoạt động; hoặc việc tham gia vào một hợp đồng ràng buộc để bán tài
sản hoặc thanh toán các khoản nợ; (c) Mua sắm hoặc thanh lý
tài sản có giá trị lớn; (d) Nhà xưởng sản xuất bị
phá hủy vì hỏa hoạn, bão lụt; (e) Thực hiện tái cơ cấu
chủ yếu; (f) Các giao dịch chủ yếu
và tiềm năng của cổ phiếu thường; (g) Thay đổi bất thường,
quan trọng về giá bán tài sản hoặc tỷ giá hối đoái. (h) Thay đổi về thuế có
ảnh hưởng quan trọng đến tài sản, nợ thuế hiện hành hoặc thuế hoãn
lại; (i) Tham gia những cam
kết, thỏa thuận quan trọng hoặc những khoản nợ tiềm tàng; (j) Xuất hiện những vụ
kiện tụng lớn./. |
HỆ THỐNG CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM
BÁO CÁO TÀI CHÍNH GIỮA
NIÊN ĐỘ
(Ban hành và công bố theo
Quyết định số 12/2005/QĐ-BTC,ngày 15 tháng 02 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính)
Mục đích của Chuẩn mực này là quy định nội dung tối thiểu của một báo
cáo tài chính tóm lược giữa niên độ, các nguyên tắc ghi nhận và đánh giá cần
phải được áp dụng khi lập và trình bày báo cáo tài chính giữa niên độ. Báo cáo
tài chính giữa niên độ được lập kịp thời và đáng tin cậy sẽ cho phép các nhà đầu
tư, các chủ nợ và những người sử dụng khác hiểu rõ hơn về khả năng tạo ra các
nguồn thu, các luồng tiền, về tình hình tài chính và khả năng thanh toán của
doanh nghiệp.
Chuẩn mực này áp dụng cho các doanh nghiệp theo qui định của pháp luật
phải lập báo cáo tài chính quý.
Chuẩn mực này cũng được áp dụng cho các doanh nghiệp tự nguyện lập báo
cáo tài chính giữa niên độ.
Doanh nghiệp phải công khai báo cáo tài chính giữa niên độ theo qui định
của pháp luật.
Các thuật ngữ trong Chuẩn mực này được hiểu như sau
:
Kỳ kế toán giữa niên
độ: Là
kỳ lập báo cáo tài chính tháng hoặc quý theo quy định của pháp luật.
Báo cáo tài chính giữa niên độ: Là báo cáo tài chính gồm các báo cáo đầy đủ theo qui định trong Chuẩn
mực kế toán số 21 “Trình bày báo cáo tài chính” hoặc các báo cáo tài chính tóm
lược qui định trong Chuẩn mực này cho một kỳ kế toán giữa niên
độ.
Nội dung báo cáo tài chính giữa niên độ
Chuẩn mực kế toán số 21 “Trình bày báo cáo tài chính” đã qui định báo
cáo tài chính gồm:
(a) Bảng cân đối kế toán;
(b) Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh;
(c) Báo cáo lưu chuyển tiền tệ; và
(d) Bản thuyết minh báo cáo tài chính.
Chuẩn mực này qui định những nội dung tối thiểu của một bộ báo cáo tài
chính giữa niên độ gồm các báo cáo tài chính tóm lược và phần thuyết minh được
chọn lọc. Báo cáo tài chính giữa niên độ nhằm cập nhật các thông tin đã trình
bày trong bộ báo cáo tài chính năm gần nhất. Báo cáo tài chính giữa niên độ tập
trung trình bày vào các sự kiện, các hoạt động mới và không lặp lại các thông
tin đã được công bố trước đó.
Chuẩn mực này khuyến khích doanh nghiệp công bố một bộ đầy đủ các báo
cáo tài chính giữa niên độ giống như các báo cáo tài chính năm. Chuẩn mực này
cũng khuyến khích doanh nghiệp cung cấp thêm trong các báo cáo tài chính giữa
niên độ tóm lược những thông tin khác ngoài nội dung tối thiểu của một báo cáo
tài chính giữa niên độ hoặc phần thuyết minh được chọn lọc như quy định trong
Chuẩn mực này. Các nguyên tắc kế toán và đánh giá quy định trong Chuẩn mực này
cũng được áp dụng đối với các báo cáo tài chính đầy đủ giữa niên độ và các báo
cáo này cần phải cung cấp mọi diễn giải trong phần thuyết minh quy định tại
Chuẩn mực này (đặc biệt là các diễn giải quy định tại đoạn 13) cũng như các
thuyết minh quy định tại các Chuẩn mực kế toán khác.
Nội dung báo cáo tài chính tóm lược giữa niên độ
Báo cáo tài chính tóm lược giữa niên độ bao
gồm:
(a) Bảng cân đối kế toán tóm lược;
(b) Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh tóm
lược;
(c) Báo cáo lưu chuyển tiền tệ tóm lược; và
(d) Bản Thuyết minh báo cáo tài chính chọn
lọc.
Hình thức và nội dung của các báo cáo tài chính giữa niên
độ
Nếu doanh nghiệp lập và trình bày báo cáo tài chính đầy đủ giữa niên độ,
thì hình thức và nội dung của từng báo cáo đó phải phù hợp với quy định tại
Chuẩn mực kế toán số 21 “Trình bày báo cáo tài chính”.
Nếu doanh nghiệp lập và trình bày báo cáo tài chính tóm lược giữa niên
độ, thì hình thức và nội dung của từng báo cáo tài chính tóm lược đó tối thiểu
phải bao gồm các đề mục và số cộng chi tiết được trình bày trong báo cáo tài
chính năm gần nhất và phần thuyết minh được chọn lọc theo yêu cầu của Chuẩn mực
này. Để báo cáo tài chính tóm lược giữa niên độ không bị sai lệch, doanh nghiệp
cần phải trình bày các khoản mục hoặc các phần thuyết minh bổ
sung.
Lợi nhuận trên một cổ phiếu trước và sau ngày phân phối cần phải được
trình bày trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đầy đủ hoặc tóm lược của kỳ
kế toán giữa niên độ.
Một doanh nghiệp có công ty con
phải lập báo cáo tài chính hợp nhất theo qui định của Chuẩn mực kế toán số 25
“Báo cáo tài chính hợp nhất và kế toán khoản đầu tư vào công ty con” thì cũng
phải lập báo cáo tài chính hợp nhất tóm lược giữa niên độ ngoài báo cáo tài
chính giữa niên độ riêng biệt của mình.
PHẦN THUYẾT MINH ĐƯỢC LỰA CHỌN
Báo cáo tài chính giữa niên độ không cần phải trình bày những thông tin
không quan trọng đã được trình bày trong phần thuyết minh báo cáo năm gần nhất.
Việc trình bày các sự kiện và giao dịch quan trọng trong báo cáo tài chính giữa
niên độ nhằm giúp người sử dụng hiểu được những thay đổi về tài chính và kinh
doanh của doanh nghiệp từ ngày lập báo cáo tài chính năm gần
nhất.
Một doanh nghiệp cần phải trình bày các thông tin sau trong phần thuyết
minh báo cáo tài chính tóm lược giữa niên độ, nếu các thông tin này mang tính
trọng yếu và chưa được trình bày trong báo cáo tài chính giữa niên độ nào. Các
thông tin này cần phải trình bày trên cơ sở luỹ kế từ đầu niên độ đến ngày lập
báo cáo. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng cần phải trình bày các sự kiện hoặc giao
dịch trọng yếu để hiểu được kỳ kế toán giữa niên độ hiện
tại:
(a) Doanh nghiệp phải
công bố việc lập báo cáo tài chính giữa niên độ và báo cáo tài chính năm gần đây
nhất là cùng áp dụng các chính sách kế toán như nhau. Trường hợp có thay đổi thì
phải mô tả sự thay đổi và ảnh hưởng của những thay đổi
này;
(b) Giải thích về tính
thời vụ hoặc tính chu kỳ của các hoạt động kinh doanh trong kỳ kế toán giữa niên
độ;
(c) Tính chất và giá trị
của các khoản mục ảnh hưởng đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, thu
nhập thuần, hoặc các luồng tiền được coi là các yếu tố không bình thường do tính
chất, quy mô hoặc tác động của chúng;
(d) Những biến động trong
nguồn vốn chủ sở hữu luỹ kế tính đến ngày lập báo cáo tài chính giữa niên độ,
cũng như Phần thuyết minh tương ứng mang tính so sánh cùng kỳ kế toán trên của
niên độ trước gần nhất;
(đ) Tính chất và giá trị
của những thay đổi trong các ước tính kế toán đã được báo cáo trong báo cáo giữa
niên độ trước của niên độ hiện tại hoặc những thay đổi trong các ước tính kế
toán đã được báo cáo trong các niên độ trước, nếu những thay đổi này có ảnh
hưởng trọng yếu đến kỳ kế toán giữa niên độ hiện tại;
(e) Phát hành, mua lại và
hoàn trả các chứng khoán nợ và chứng khoán vốn;
(f) Cổ tức đã trả (tổng
số hay trên mỗi cổ phần) của cổ phiếu thường và cổ phiếu
khác;
(g) Doanh thu và kết quả bộ phận theo lĩnh vực
kinh doanh hoặc khu vực địa lý, dựa trên cơ sở phân chia của báo cáo bộ
phận;
(h) Những sự kiện trọng
yếu phát sinh sau ngày kết thúc kỳ kế toán giữa niên độ chưa được phản ánh trong
các báo cáo tài chính giữa niên độ đó;
(i) Tác động của những
thay đổi trong cơ cấu hoạt động của doanh nghiệp trong kỳ kế toán giữa niên độ,
chủ yếu là các nghiệp vụ hợp nhất kinh doanh, mua hoặc thanh lý công ty con, đầu
tư dài hạn, tái cơ cấu và ngừng hoạt động; và
(j) Những thay đổi trong
các khoản nợ ngẫu nhiên hoặc các tài sản ngẫu nhiên kể từ ngày kết thúc kỳ kế
toán năm gần nhất.
Các Chuẩn mực kế toán đều quy định rõ các
thông tin cần phải trình bày trong các báo cáo tài chính. Trong bối cảnh này,
thuật ngữ “báo cáo tài chính” được dùng để chỉ một bộ báo cáo tài chính đầy đủ
thường bao gồm báo cáo tài chính năm và có thể có cả những báo cáo khác. Doanh
nghiệp không bắt buộc phải diễn giải đầy đủ mọi phần thuyết minh theo quy định
trong các Chuẩn mực kế toán khác nếu như báo cáo tài chính giữa niên độ của
doanh nghiệp đó chỉ bao gồm các báo cáo tài chính tóm lược và phần thuyết minh
được chọn lọc.
TRÌNH BÀY VIỆC TUÂN THỦ CÁC CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VÀ CHẾ ĐỘ KẾ TOÁN VIỆT NAM
15. Doanh nghiệp phải nêu
rõ trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính là báo cáo tài chính giữa niên độ
được lập và trình bày phù hợp với chuẩn mực này. Báo cáo tài chính giữa niên độ
chỉ được coi là phù hợp với các chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán Việt Nam nếu
báo cáo tài chính tuân thủ các quy định của chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán
hiện hành do Bộ Tài chính ban hành.
Các kỳ kế toán phải trình bày trong báo cáo tài chính giữa niên
độ
16. Báo cáo tài chính
giữa niên độ (tóm lược hoặc đầy đủ) phải bao gồm các kỳ như sau cho từng báo
cáo:
(a) Bảng cân đối kế toán
vào ngày kết thúc kỳ kế toán giữa niên độ hiện tại và số liệu mang tính so sánh
vào ngày kết thúc kỳ kế toán năm trước;
(b) Báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh của kỳ kế toán giữa niên độ hiện tại và số luỹ kế từ ngày đầu
niên độ hiện tại đến ngày lập báo cáo tài chính giữa niên độ đó. Báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh của kỳ kế toán giữa niên độ hiện tại có thể có số liệu so
sánh của Báo cáo kết quả kinh doanh giữa niên độ cùng kỳ năm
trước;
(c) Báo cáo lưu chuyển
tiền tệ luỹ kế từ ngày đầu niên độ hiện tại đến ngày lập báo cáo tài chính giữa
niên độ, cùng với số liệu mang tính so sánh của cùng kỳ kế toán giữa niên độ
trước.
17. Chuẩn mực này khuyến
khích doanh nghiệp hoạt động theo thời vụ, báo cáo thông tin tài chính năm của
kỳ 12 tháng kết thúc vào ngày lập báo cáo tài chính giữa niên độ và các thông
tin mang tính so sánh cùng kỳ 12 tháng của niên độ trước
đây.
TÍNH TRỌNG YẾU
18. Doanh nghiệp cần đánh
giá tính trọng yếu dựa trên số liệu của báo cáo tài chính giữa niên độ trong các
quyết định về ghi nhận, đánh giá, phân loại hoặc trình bày một khoản mục trong
báo cáo tài chính giữa niên độ. Để đánh giá được tính trọng yếu, cần phải hiểu
rằng các đánh giá giữa niên độ phần lớn dựa trên những ước tính do đó ít chính
xác hơn so với các đánh giá trong báo cáo tài chính
năm.
19. Chuẩn mực kế toán số
01 “Chuẩn mực chung” định nghĩa “Thông tin được coi là trọng yếu trong trường
hợp nếu thiếu thông tin hoặc thiếu chính xác của thông tin đó có thể làm sai
lệch đáng kể báo cáo tài chính, làm ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người
sử dụng báo cáo tài chính”. Chuẩn mực kế toán số 29 “Thay đổi chính sách kế
toán, ước tính kế toán và các sai sót” yêu cầu phải thuyết minh những thay đổi
ước tính kế toán, các sai sót và thay đổi chính sách kế toán. Chuẩn mực số 29
không hướng dẫn cách xác định mức độ trọng yếu.
20. Doanh nghiệp phải xét
đoán khi đánh giá tính trọng yếu để lập báo cáo tài chính. Chuẩn mực này quy
định tài liệu của kỳ kế toán giữa niên độ là cơ sở cho quyết định ghi nhận và
trình bày thông tin của kỳ kế toán giữa niên độ, như những yếu tố không thường
xuyên, những thay đổi trong chính sách kế toán hoặc ước tính kế toán và những
sai sót sẽ được ghi nhận và trình bày trên cơ sở tính trọng yếu của chúng so với
các dữ liệu của kỳ kế toán giữa niên độ nhằm tránh suy diễn sai lệch do việc
không thuyết minh gây ra. Mục tiêu đánh giá tính trọng yếu là để đảm bảo cho báo
cáo tài chính giữa niên độ chứa đựng toàn bộ các thông tin hữu ích giúp người sử
dụng hiểu được tình hình tài chính và hoạt động của doanh nghiệp trong kỳ kế
toán giữa niên độ.
THÔNG TIN ĐƯỢC TRÌNH BÀY TRONG BẢN THUYẾT MINH BÁO CÁO TÀI CHÍNH
NĂM
21. Nếu ước tính một
thông tin trong báo cáo tài chính giữa niên độ có thay đổi đáng kể trong kỳ kế
toán giữa niên độ cuối cùng của năm tài chính nhưng báo cáo tài chính giữa niên
độ không được lập riêng rẽ cho kỳ này thì bản chất và giá trị của sự thay đổi
trong ước tính đó phải được trình bày trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính
năm đó.
22. Chuẩn mực kế toán số
29 “Thay đổi chính sách kế toán, ước tính kế toán và các sai sót” quy định phải
trình bày bản chất và giá trị của những thông tin do thay đổi ước tính kế toán
có ảnh hưởng trọng yếu đến niên độ hiện tại hoặc dự kiến sẽ có ảnh hưởng trọng
yếu đến các niên độ kế tiếp. Đoạn 13(đ) của Chuẩn mực này quy định phải trình
bày tương tự trong báo cáo tài chính giữa niên độ. Ví dụ những thay đổi trong
ước tính được thực hiện trong kỳ kế toán giữa niên độ cuối cùng đối với việc lập
dự phòng hàng tồn kho, chi phí tái cơ cấu, đã được ghi sổ trong kỳ kế toán giữa
niên độ trước của năm tài chính. Việc trình bày theo yêu cầu của đoạn trên đây
nhất quán với các quy định của Chuẩn mực kế toán số 29 “Thay đổi chính sách kế
toán, ước tính kế toán và các sai sót” nhằm thu hẹp phạm vi chỉ liên quan đến
thay đổi trong ước tính kế toán.
GHI NHẬN VÀ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ
áp dụng chính sách kế toán giống chính sách kế toán trong báo cáo tài
chính năm
23. Doanh nghiệp phải áp
dụng chính sách kế toán để lập báo cáo tài chính giữa niên độ như chính sách kế
toán đã áp dụng để lập báo cáo tài chính năm, ngoại trừ những thay đổi trong
chính sách kế toán xảy ra sau ngày lập báo cáo tài chính năm gần nhất. Việc lập
báo cáo tài chính năm và báo cáo tài chính giữa niên độ của doanh nghiệp không
ảnh hưởng đến việc xác định kết quả của niên độ. Việc xác định thông tin để lập
báo cáo giữa niên độ phải được thực hiện trên cơ sở luỹ kế từ đầu niên độ đến
ngày lập báo cáo tài chính giữa niên độ.
24. Việc quy định một
doanh nghiệp phải áp dụng chính sách kế toán để lập báo cáo tài chính giữa niên
độ như chính sách kế toán để lập báo cáo tài chính năm làm cho báo cáo tài chính
giữa niên độ có tính độc lập với nhau. Tuy nhiên báo cáo tài chính giữa niên độ
không ảnh hưởng đến việc xác định kết quả hàng năm của doanh nghiệp. Việc báo
cáo thông tin trên cơ sở luỹ kế từ ngày đầu niên độ đến ngày lập báo cáo tài
chính giữa niên độ có thể làm cho phải thay đổi những ước tính kế toán đã được
công bố trong các báo cáo tài chính giữa niên độ trước của năm hiện tại. Nguyên
tắc ghi nhận tài sản, nợ phải trả, doanh thu, thu nhập khác và chi phí trong các
kỳ kế toán giữa niên độ cũng giống như nguyên tắc ghi nhận được áp dụng trong
báo cáo tài chính năm.
25. Quy định cụ thể về
ghi nhận và xác định thông tin khi lập báo cáo tài chính giữa niên độ:
(a) Nguyên tắc ghi nhận
và xác định khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, các khoản lỗ từ việc tái cơ
cấu hoặc tổn thất trong một kỳ kế toán giữa niên độ cũng giống như nguyên tắc
phải áp dụng nếu doanh nghiệp chỉ lập báo cáo tài chính năm. Tuy nhiên, nếu các
khoản mục này đã được ghi nhận và đánh giá trong kỳ kế toán giữa niên độ và việc
ước tính các yếu tố này thay đổi trong kỳ kế toán giữa niên độ sau của năm hiện
tại thì ước tính ban đầu phải được thay đổi trong kỳ kế toán giữa niên độ sau
bằng cách hạch toán thêm một khoản lỗ bổ sung hoặc bằng cách hoàn nhập một khoản
dự phòng đã được hạch toán trước đây;
(b) Khoản chi phí không
thỏa mãn định nghĩa của một tài sản vào thời điểm cuối giữa niên độ sẽ không
được hoãn lại trên Bảng cân đối kế toán để chờ các thông tin trong tương lai
nhằm khẳng định xem liệu chi phí này có hội đủ tiêu chuẩn định nghĩa của một tài
sản hay không hoặc để che dấu các khoản lợi nhuận trong các kỳ kế toán giữa niên
độ của năm tài chính; và
(c) Chi phí thuế thu nhập
doanh nghiệp được ghi nhận trong mỗi kỳ kế toán giữa niên độ trên cơ sở ước tính
tối ưu về thuế suất bình quân gia quyền được dự trù cho cả năm tài chính. Số
thuế phải nộp cho kỳ kế toán giữa niên độ có thể phải được điều chỉnh trong kỳ
kế toán giữa niên độ sau của cùng năm hiện tại nếu có thay đổi trong ước tính về
thuế suất của năm đó.
26. Theo Chuẩn mực số 01
“Chuẩn mực chung”, Báo cáo tài chính phải ghi nhận các yếu tố về tình hình tài
chính và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp theo từng khoản mục. Định nghĩa
về tài sản, nợ phải trả, doanh thu, thu nhập khác và chi phí là nền tảng của
việc ghi nhận vào báo cáo tài chính giữa niên độ cũng như vào báo cáo tài chính
năm.
27. Đối với các tài sản
cần phải thực hiện những kiểm tra như nhau về lợi ích kinh tế mang lại trong
tương lai của chúng tại ngày kết thúc kỳ kế toán giữa niên độ cũng như vào ngày
kết thúc kỳ kế toán năm. Các chi phí, theo bản chất của chúng, không phải là các
yếu tố cấu thành tài sản vào ngày kết thúc kỳ kế toán năm sẽ không phải là các yếu tố cấu thành tài sản
vào ngày kết thúc kỳ kế toán giữa niên độ. Tương tự, một khoản nợ phải trả tại
ngày kết thúc kỳ kế toán giữa niên độ phải thể hiện một nghĩa vụ hiện có tại
ngày kết thúc kỳ kế toán giữa niên độ đó, giống như trường hợp một khoản nợ phải
trả tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm.
28. Một trong những điểm
chủ yếu của doanh thu, thu nhập khác và chi phí là các luồng vào và luồng ra của
tài sản và nợ phải trả tương ứng đã thực sự xảy ra. Nếu luồng vào và ra này đã
thực sự xảy ra thì doanh thu và chi phí tương ứng sẽ được ghi nhận. Chuẩn mực
chung đã quy định “chi phí sản xuất, kinh doanh và chi phí khác được ghi nhận
trong Báo cáo kết quả kinh doanh khi các chi phí này làm giảm lợi ích kinh tế
trong tương lai có liên quan đến việc giảm bớt tài sản hoặc tăng nợ phải trả và
chi phí này phải xác định được một cách đáng tin cậy”. Những khoản mục không
thỏa mãn định nghĩa về tài sản hoặc nợ phải trả thì không cho phép ghi nhận vào
Bảng cân đối kế toán.
29. Để xác định giá trị
tài sản, nợ phải trả, doanh thu, thu nhập khác, chi phí và các luồng tiền được
phản ánh trong báo cáo tài chính, doanh nghiệp chỉ phải lập báo cáo tài chính
hàng năm cần phải tính đến mọi thông tin mà doanh nghiệp có được trong suốt niên
độ. Việc xác định giá trị của tài sản, nợ phải trả, doanh thu và thu nhập khác,
chi phí phải được thực hiện trên cơ sở luỹ kế từ đầu niên độ đến cuối niên
độ.
30. Một doanh nghiệp phải
lập báo cáo tài chính giữa niên độ thì sử dụng các thông tin có được từ đầu năm
đến ngày lập báo cáo tài chính giữa niên độ để xác định giá trị trong báo cáo
tài chính giữa niên độ và các thông tin có được đến cuối niên độ hoặc ngay sau
đó để lập báo cáo tài chính của kỳ kế toán 12 tháng. Các đánh giá của cả 12
tháng sẽ phản ánh những thay đổi có thể có trong các ước tính của các số liệu đã
được báo cáo trong kỳ kế toán giữa niên độ. Các số liệu đã báo cáo trong báo cáo
tài chính giữa niên độ không cần phải điều chỉnh hồi tố. Đoạn 13(đ) và đoạn 21
yêu cầu phải trình bày tính chất và thông tin của mọi thay đổi quan trọng trong
các ước tính kế toán.
31. Một doanh nghiệp phải lập báo cáo tài chính giữa niên độ cần phải
xác định giá trị các khoản doanh thu, thu nhập khác và chi phí trên một cơ sở
luỹ kế đến ngày cuối cùng của từng kỳ kế toán giữa niên độ căn cứ vào những
thông tin sẵn có vào thời điểm lập báo cáo tài chính. Số liệu các khoản doanh
thu, thu nhập khác và chi phí được báo cáo trong kỳ kế toán giữa niên độ hiện
tại phản ánh mọi thay đổi trong các ước tính kế toán đã được công bố trong những
kỳ kế toán giữa niên độ trước đó của năm tài chính. Các số liệu đã được báo cáo
trong những kỳ kế toán giữa niên độ trước đó không cần được điều chỉnh hồi tố.
Đoạn 13(đ) và đoạn 21 yêu cầu phải trình bày tính chất và thông tin của mọi thay
đổi quan trọng trong các ước tính kế toán.
Doanh thu mang tính thời vụ, chu kỳ hoặc thời cơ
32. Các khoản doanh thu
mang tính thời vụ, chu kỳ hoặc thời cơ nhận được trong một năm tài chính sẽ
không được ghi nhận trước hoặc hoãn lại vào ngày lập báo cáo tài chính giữa niên
độ nếu việc ghi nhận trước hoặc hoãn lại đó được coi là không thích hợp vào cuối
năm tài chính của doanh nghiệp.
33. Doanh thu mang tính
chu kỳ, thời vụ hoặc thời cơ như trường hợp doanh thu từ cổ tức, bản quyền. Một
số doanh nghiệp có thể có doanh thu cao hơn trong một số kỳ so với những kỳ khác
của niên độ như doanh thu theo mùa vụ của cửa hàng bán lẻ. Các khoản doanh thu
này được ghi nhận khi chúng phát sinh.
Chi phí phát sinh đột xuất trong niên độ
34. Các chi phí phát sinh
đột xuất trong năm tài chính của doanh nghiệp cần phải được trích trước hoặc
phân bổ cho mục đích lập báo cáo tài chính giữa niên độ khi việc trích trước
hoặc phân bổ đó được coi là phù hợp với từng loại chi phí vào cuối năm tài
chính.
Sử dụng các ước tính
35.Thủ tục xác định thông
tin được thực hiện trong quá trình lập báo cáo tài chính giữa niên độ phải được
thiết lập để đảm bảo cho các thông tin tài chính trọng yếu, hữu ích được cung
cấp là đáng tin cậy, có thể hiểu được tình hình tài chính và hoạt động của doanh
nghiệp.Việc xác định thông tin trình bày trong báo cáo tài chính năm cũng như
trong báo cáo tài chính giữa niên độ thường được căn cứ trên các ước tính hợp
lý, nhưng việc lập báo cáo tài chính giữa niên độ thường phải sử dụng các ước
tính nhiều hơn so với báo cáo tài chính năm.
Điều chỉnh báo cáo tài
chính giữa niên độ đã được báo cáo trước đây
36. Việc thay đổi chính
sách kế toán khác với việc thay đổi do Chuẩn mực kế toán mới được áp dụng.
Trường hợp này cần được phản ánh bằng cách:
a/ Điều chỉnh lại báo cáo
tài chính của các kỳ kế toán giữa niên độ trước của năm tài chính hiện tại và
các kỳ kế toán giữa niên độ tương ứng có thể so sánh được của năm tài chính
trước đây (xem đoạn 16) được điều chỉnh trong báo cáo tài chính năm theo quy
định của Chuẩn mực kế toán số 29 “Thay đổi chính sách kế toán, ước tính kế toán
và các sai sót”; hoặc
b/ Khi không thể xác định
được ảnh hưởng của việc áp dụng chính sách kế toán mới đến các kỳ trong quá khứ,
thì thực hiện phi hồi tố chính sách kế toán mới kể từ kỳ sớm nhất có thể thực
hiện được bằng cách điều chỉnh lại báo cáo tài chính của các kỳ giữa niên độ
trước niên độ hiện tại và các kỳ kế toán so sánh giữa niên độ tương ứng.
37. Mục tiêu của quy định
tại đoạn 36 nhằm đảm bảo áp dụng nhất quán chính sách kế toán cho một loại giao
dịch cụ thể trong suốt năm tài chính. Theo Chuẩn mực kế toán số 29 “Thay đổi
chính sách kế toán, ước tính kế toán và các sai sót”, việc thay đổi chính sách
kế toán được áp dụng hồi tố bằng cách điều chỉnh lại các số liệu tài chính của
những kỳ kế toán trước đây. Tuy nhiên, nếu không thể điều chỉnh số liệu luỹ kế
có liên quan đến niên độ kế toán trước thì theo Chuẩn mực kế toán số 29, chính
sách kế toán mới được áp dụng phi hồi tố kể từ kỳ sớm nhất có thể xác định được
trở về trước. Quy định trong đoạn 36 yêu cầu mọi thay đổi chính sách kế toán
trong niên độ hiện tại cần phải được áp dụng hồi tố hoặc nếu không thực tế thì
áp dụng phi hồi tố muộn nhất là ngay từ đầu niên độ đó.
38. Việc cho phép những
thay đổi chính sách kế toán được thực hiện từ một ngày nào đó giữa niên độ sẽ
cho phép áp dụng hai chính sách kế toán khác nhau đối với một loại giao dịch
trong cùng một năm tài chính, sẽ gây ra khó khăn trong việc tính toán, phân tích
và hiểu các thông tin được cung cấp./.
HỆ THỐNG CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM
BÁO CÁO BỘ
PHẬN
(Ban hành và công bố theo
Quyết định số 12/2005/QĐ-BTC, ngày 15 tháng 02 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính)
QUY ĐỊNH CHUNG
01. Mục đích của chuẩn mực này là quy định nguyên tắc và phương pháp lập
báo cáo các thông tin tài chính theo bộ phận, lĩnh vực kinh doanh và các khu vực
địa lý khác nhau của doanh nghiệp nhằm hỗ trợ người sử dụng báo cáo tài
chính:
a) Hiểu rõ về tình hình
hoạt động các năm trước của doanh nghiệp;
b) Đánh giá đúng về những
rủi ro và lợi ích kinh tế của doanh nghiệp; và
c) Đưa ra những đánh giá
hợp lý về doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp
cung cấp các nhóm sản phẩm và dịch vụ hoặc hoạt động trong các khu vực địa lý
khác nhau có tỷ lệ sinh lời, cơ hội tăng trưởng, triển vọng và rủi ro khác nhau.
Thông tin về các loại sản phẩm, dịch vụ tại các khu vực địa lý khác nhau được
gọi là thông tin bộ phận. Thông tin bộ phận cần thiết cho việc đánh giá rủi ro
và lợi ích kinh tế của doanh nghiệp có cơ sở ở nước ngoài hoặc doanh nghiệp có
phạm vi hoạt động trên nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước. Thông tin bộ phận
cũng cần thiết cho người sử dụng báo cáo tài chính.
02. Chuẩn mực này áp dụng cho việc lập và trình
bày đầy đủ hơn báo cáo tài chính năm phù hợp với các Chuẩn mực kế toán Việt
Nam.
03. Báo cáo tài chính bộ phận cũng bao gồm
Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển
tiền tệ và Bản thuyết minh báo cáo tài chính như quy định trong Chuẩn mực số 21
“Trình bày báo cáo tài chính”.
04. Chuẩn mực này áp dụng cho doanh nghiệp có
chứng khoán trao đổi công khai và doanh nghiệp đang phát hành chứng khoán trên
thị trường chứng khoán.
05. Khuyến khích các doanh nghiệp không phát hành hoặc không có chứng
khoán trao đổi công khai áp dụng chuẩn mực này.
06. Nếu doanh nghiệp không phát hành hoặc không
có chứng khoán trao đổi công khai tự nguyện áp dụng chuẩn mực này thì phải tuân
thủ đầy đủ các quy định của chuẩn mực.
07. Nếu báo cáo tài chính bao gồm báo cáo tài
chính hợp nhất của tập đoàn có chứng khoán được trao đổi công khai và báo cáo
tài chính riêng của công ty mẹ và của một hoặc nhiều công ty con, thông tin theo
bộ phận cần phải trình bày trong báo cáo tài chính hợp nhất. Nếu công ty con có
chứng khoán trao đổi công khai, thì công ty con đó sẽ trình bày thông tin bộ
phận trong báo cáo tài chính riêng của mình.
08. Các thuật ngữ trong Chuẩn mực này được
hiểu như sau:
Hoạt động kinh
doanh:
Là các hoạt động tạo ra doanh thu chủ yếu của doanh nghiệp và các hoạt động khác
không phải là hoạt động đầu tư hoặc hoạt động tài chính.
Chính sách kế
toán: Là
các nguyên tắc, cơ sở và phương pháp kế toán cụ thể được doanh nghiệp áp dụng
trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính.
Doanh thu: Là tổng giá trị các lợi
ích kinh tế doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán, phát sinh từ các hoạt động
sản xuất, kinh doanh thông thường của doanh nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở
hữu.
Định nghĩa bộ phận theo
lĩnh vực kinh doanh và bộ phận theo khu vực địa lý
09.
Bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh: Là một bộ phận có thể phân biệt
được của một doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất hoặc cung cấp sản
phẩm, dịch vụ riêng lẻ, một nhóm các sản phẩm hoặc các dịch vụ có liên quan mà
bộ phận này có rủi ro và lợi ích kinh tế khác với các bộ phận kinh doanh khác.
Các nhân tố cần xem xét để xác định sản phẩm và dịch vụ có liên quan hay không,
gồm:
a) Tính chất của hàng hóa
và dịch vụ;
b) Tính chất của quy trình sản xuất;
c) Kiểu hoặc nhóm khách
hàng sử dụng các sản phẩm hoặc dịch vụ;
d) Phương pháp được sử
dụng để phân phối sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ;
e) Điều kiện của môi
trường pháp lý như hoạt động ngân hàng, bảo hiểm hoặc dịch vụ công cộng.
Bộ phận theo khu vực địa
lý: Là
một bộ phận có thể phân biệt được của một doanh nghiệp tham gia vào quá trình
sản xuất hoặc cung cấp sản phẩm, dịch vụ trong phạm vi một môi trường kinh tế cụ
thể mà bộ phận này có rủi ro và lợi ích kinh tế khác với các bộ phận kinh doanh
trong các môi trường kinh tế khác. Các nhân tố cần xem xét để xác định bộ phận
theo khu vực địa lý, gồm:
a) Tính tương đồng của
các điều kiện kinh tế và chính trị;
b) Mối quan hệ của những
hoạt động trong các khu vực địa lý khác nhau;
c) Tính tương đồng của
hoạt động kinh doanh;
d) Rủi ro đặc biệt có
liên quan đến hoạt động trong một khu vực địa lý cụ thể;
e) Các quy định về kiểm soát ngoại hối;
và
f) Các rủi ro về tiền
tệ.
Một bộ phận cần báo
cáo: Là
một bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh hoặc một bộ phận theo khu vực địa lý được
xác định dựa trên các định nghĩa nêu trên.
10. Một lĩnh vực kinh doanh không bao gồm các
sản phẩm, dịch vụ có rủi ro và lợi ích kinh tế khác biệt đáng kể. Có những điểm
không tương đồng với một hoặc một vài nhân tố trong định nghĩa bộ phận theo lĩnh
vực kinh doanh nhưng các sản phẩm, dịch vụ trong một lĩnh vực kinh doanh phải
tương đồng với phần lớn các nhân tố.
Một khu vực địa lý không
bao gồm các hoạt động trong môi trường kinh tế có rủi ro và lợi ích kinh tế khác
biệt đáng kể. Một khu vực địa lý có thể là một quốc gia, hai hay nhiều quốc gia
hoặc một, hai hay nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước.
12. Cách thức tổ chức và
quản lý của doanh nghiệp phụ thuộc vào các rủi ro có tác động đáng kể tới doanh
nghiệp đó. Đoạn 25 Chuẩn mực này quy định về cơ cấu tổ chức của một doanh nghiệp
và hệ thống báo cáo tài chính nội bộ của doanh nghiệp làm cơ sở xác định các bộ
phận của doanh nghiệp. Rủi ro và lợi ích kinh tế của doanh nghiệp bị ảnh hưởng
bởi khu vực địa lý là vị trí của tài sản, là nơi doanh nghiệp hoạt động (nơi sản
xuất sản phẩm hoặc nơi hình thành dịch vụ của doanh nghiệp) và cũng bị ảnh hưởng
bởi vị trí của khách hàng (nơi sản phẩm của doanh nghiệp được bán hoặc nơi dịch
vụ của doanh nghiệp được cung cấp). Xác định các bộ phận theo khu vực địa lý dựa
trên:
Vị trí của tài sản là địa
điểm sản xuất hoặc hình thành dịch vụ của doanh nghiệp;
hoặc
Vị trí của khách hàng là
địa điểm của thị trường và khách hàng của doanh nghiệp.
Cơ cấu tổ chức và quản lý
của doanh nghiệp là căn cứ để xác định liệu các rủi ro liên quan đến khu vực địa
lý phát sinh từ nơi sản xuất hay nơi tiêu thụ sản phẩm. Doanh nghiệp căn cứ vào
cơ cấu tổ chức và quản lý hoặc vị trí của tài sản hoặc vị trí của khách hàng để
xác định các khu vực địa lý của doanh nghiệp .
Việc xác định bộ phận báo
cáo theo lĩnh vực kinh doanh hoặc theo khu vực địa lý phụ thuộc vào đánh giá của
Ban Giám đốc doanh nghiệp. Để thực hiện việc đánh giá này, Ban Giám đốc phải xem
xét mục tiêu của việc lập báo cáo tài chính theo bộ phận quy định trong Chuẩn
mực này và các chuẩn mực khác.
Định nghĩa doanh thu, chi
phí, kết quả, tài sản và nợ phải trả bộ phận
Các thuật ngữ dưới đây sử dụng trong Chuẩn mực
này được hiểu như sau:
Doanh thu bộ phận: Là doanh thu
trình bày trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được tính
trực tiếp hoặc phân bổ cho bộ phận, bao gồm doanh thu bán hàng và cung cấp dịch
vụ ra bên ngoài và doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ cho bộ phận khác của
doanh nghiệp. Doanh thu bộ phận không bao gồm:
Thu nhập
khác;
Doanh thu từ tiền lãi
hoặc cổ tức, kể cả tiền lãi thu được trên các khoản ứng trước hoặc các khoản
tiền cho các bộ phận khác vay, trừ khi hoạt động của bộ phận chủ yếu là hoạt
động tài chính; hoặc
Lãi từ việc bán các khoản
đầu tư hoặc lãi từ việc xoá nợ trừ khi hoạt động của bộ phận đó chủ yếu là hoạt
động tài chính.
Doanh thu của bộ phận bao gồm cả phần lãi hoặc lỗ do đầu tư vào công ty
liên kết, công ty liên doanh hoặc các khoản đầu tư tài chính khác được hạch toán
theo phương pháp vốn chủ sở hữu khi các khoản doanh thu đó nằm trong doanh thu
hợp nhất của tập đoàn.
Chi phí bộ phận:
Là chi
phí phát sinh từ các hoạt động kinh doanh của bộ phận được tính trực tiếp cho bộ
phận đó và phần chi phí của doanh nghiệp được phân bổ cho bộ phận đó, bao gồm cả
chi phí bán hàng ra bên ngoài và chi phí có liên quan đến những giao dịch với bộ
phận khác của doanh nghiệp. Chi phí bộ phận không bao gồm:
Chi phí
khác;
Chi phí tiền lãi vay, kể
cả tiền lãi phải trả phát sinh đối với khoản tiền ứng trước hoặc tiền vay từ các
bộ phận khác, trừ khi hoạt động của bộ phận đó chủ yếu là hoạt động tài
chính;
Lỗ từ việc bán các khoản
đầu tư hoặc lỗ từ việc xoá nợ, trừ khi hoạt động của bộ phận đó chủ yếu là hoạt
động tài chính;
Phần sở hữu của doanh
nghiệp trong khoản lỗ của bên nhận đầu tư do đầu tư vào các công ty liên kết,
công ty liên doanh hoặc các khoản đầu tư tài chính khác được hạch toán theo
phương pháp vốn chủ sở hữu;
Chi phí thuế thu nhập
doanh nghiệp; hoặc
Chi phí hành chính chung
và các chi phí khác phát sinh liên quan đến toàn bộ doanh nghiệp. Các chi phí
doanh nghiệp chi hộ bộ phận được coi là chi phí bộ phận nếu chi phí đó liên quan
đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của bộ phận và những chi phí này có thể được
tính trực tiếp hoặc phân bổ vào bộ phận đó một cách hợp
lý.
Đối với bộ phận có hoạt động kinh doanh chủ yếu là hoạt động tài chính,
thì doanh thu và chi phí từ tiền lãi được trình bày trên cơ sở thuần trong báo
cáo bộ phận nếu báo cáo tài chính của doanh nghiệp hoặc báo cáo tài chính hợp
nhất được trình bày trên cơ sở thuần.
Kết quả kinh doanh của bộ phận:
Là doanh thu bộ phận trừ (-) chi phí bộ phận. Kết quả kinh doanh của bộ phận
được xác định trước khi tính đến lợi ích của cổ đông thiểu
số.
Tài sản của bộ phận:
Là tài
sản đang được bộ phận đó sử dụng trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh và
được tính trực tiếp hoặc được phân bổ vào bộ phận đó.
Trường hợp kết quả kinh
doanh của một bộ phận có thu nhập từ tiền lãi hay cổ tức thì tài sản của bộ phận
đó bao gồm cả các khoản phải thu, khoản cho vay, các khoản đầu tư tài chính hoặc
tài sản khác tạo ra thu nhập
trên.
Tài sản của bộ phận không
bao gồm tài sản thuế thu nhập hoãn lại.
Tài sản của bộ phận không
bao gồm các khoản dự phòng giảm giá có liên quan do các khoản này được trừ (-)
trực tiếp trong Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp.
Các khoản nợ phải trả bộ
phận: Là
các khoản nợ trong kinh doanh của bộ phận được tính trực tiếp hoặc phân bổ vào
bộ phận đó.
Trường hợp kết quả của bộ
phận có chi phí lãi vay thì nợ phải trả của bộ phận cũng bao gồm nợ phải trả
chịu lãi có liên quan.
Nợ phải trả bộ phận không
bao gồm nợ phải trả thuế hoãn lại.
Chính sách kế toán bộ phận: Là
các chính sách kế toán được áp dụng để lập và trình bày báo cáo tài chính hợp
nhất của tập đoàn hoặc doanh nghiệp bao gồm cả chính sách kế toán liên quan đến
lập báo cáo bộ phận.
Định nghĩa về doanh thu, chi phí, tài sản và
nợ phải trả bộ phận bao gồm các khoản mục được tính trực tiếp vào bộ phận và các
khoản mục được phân bổ vào bộ phận. Căn cứ vào hệ thống báo cáo tài chính nội bộ
của mình, doanh nghiệp xác định các khoản mục được tính trực tiếp hoặc được phân
bổ vào bộ phận làm cơ sở xác định doanh thu, chi phí, tài sản và nợ phải trả của
bộ phận được báo cáo.
17. Doanh thu, chi phí,
tài sản hoặc nợ phải trả của bộ phận không được tính và phân bổ một cách chủ
quan mà phải dựa vào định nghĩa về doanh thu, chi phí, tài sản và nợ phải trả bộ
phận quy định trong Chuẩn mực này để tính và phân bổ một cách hợp
lý.
18. Tài sản của bộ phận
gồm: Tài sản lưu động, tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình, tài
sản cố định thuê tài chính dùng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của bộ phận
được phân bổ hoặc khấu hao tính vào chi phí của bộ phận thì tài sản đó cũng được
tính trong tài sản của bộ phận. Tài sản bộ phận không bao gồm các tài sản được
sử dụng chung trong doanh nghiệp hoặc dùng cho trụ sở chính. Tài sản bộ phận còn
bao gồm các tài sản sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh chung cho hai hay
nhiều bộ phận và được tính trực tiếp hoặc phân bổ cho từng bộ phận, bao gồm cả
lợi thế thương mại.
19. Nợ phải trả bộ phận
gồm: Khoản phải trả thương mại, khoản phải trả khác, chi phí phải trả, các khoản
ứng trước của khách hàng. Nợ phải trả bộ phận không bao gồm các khoản đi vay, nợ
thuê tài chính và nợ phải trả khác cho mục đích tài trợ chứ không phải cho mục
đính sản xuất, kinh doanh. Trường hợp chi phí lãi vay tính trong kết quả kinh
doanh bộ phận thì nợ phải trả chịu lãi liên quan được tính trong nợ phải trả bộ
phận. Nợ phải trả bộ phận mà hoạt động chủ yếu của bộ phận đó không phải là hoạt
động tài chính do không bao gồm các khoản vay và các khoản có tính chất vay. Kết
quả bộ phận thể hiện lãi, lỗ từ hoạt động kinh doanh chứ không phải từ hoạt động
tài chính. Các khoản nợ thông thường do trụ sở chính đi vay không thể tính trực
tiếp hoặc phân bổ vào nợ phải trả chịu lãi của bộ phận đó.
20. Việc tính toán, xác định giá trị tài sản
và nợ phải trả bộ phận bao gồm cả những điều chỉnh giá trị ghi sổ khi mua tài
sản và nợ phải trả bộ phận, khoản điều chỉnh của doanh nghiệp mua trong giao
dịch hợp nhất kinh doanh phục vụ cho mục đích lập báo cáo tài chính hợp nhất mà
không được ghi vào báo cáo tài chính riêng của công ty mẹ hoặc công ty con.
21. Việc phân bổ chi phí đã quy định trong
các Chuẩn mực kế toán khác: Chuẩn mực số 02 “Hàng tồn kho” hướng dẫn việc tính
và phân bổ chi phí mua vào hàng tồn kho; Chuẩn mực số 15 “Hợp đồng xây dựng”
hướng dẫn việc tính và phân bổ chi phí vào các hợp đồng xây dựng. Các hướng dẫn
này được sử dụng cho việc tính và phân bổ chi phí vào các bộ
phận.
22. Doanh thu, chi phí, tài sản và nợ phải
trả bộ phận phải được xác định trước khi loại trừ số dư và các giao dịch nội bộ
của quá trình hợp nhất báo cáo tài chính, trừ khi số dư và các giao dịch đó được
thực hiện thuộc nhóm doanh nghiệp của bộ phận riêng lẻ.
23. Chính sách kế toán được sử dụng để lập và
trình bày báo cáo tài chính của doanh nghiệp cũng là chính sách kế toán cơ bản
để lập báo cáo bộ phận. Ngoài ra, chính sách kế toán để lập báo cáo bộ phận còn
bao gồm các chính sách liên quan trực tiếp đến việc lập báo cáo bộ phận, như các
nhân tố xác định bộ phận phải báo cáo, phương pháp định giá các giao dịch liên
bộ phận, cơ sở phân bổ doanh thu và chi phí vào các bộ
phận.
XÁC ĐỊNH CÁC BỘ PHẬN PHẢI
BÁO CÁO
Báo cáo chính yếu và thứ
yếu
24. Tính chất rủi ro và lợi ích kinh tế của
một doanh nghiệp là căn cứ chủ yếu để xác định báo cáo bộ phận chính yếu (báo
cáo đối với bộ phận chính yếu) được lập theo lĩnh vực kinh doanh hay khu vực địa
lý. Nếu rủi ro và tỷ suất sinh lời của doanh nghiệp bị tác động chủ yếu bởi
những khác biệt về sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp đó sản xuất ra thì báo
cáo chính yếu phải căn cứ vào thông tin về lĩnh vực kinh doanh và báo cáo thứ
yếu (báo cáo đối với bộ phận thứ yếu) căn cứ vào thông tin về khu vực địa lý.
Nếu rủi ro và tỷ suất sinh lời của doanh nghiệp bị tác động chủ yếu do doanh
nghiệp hoạt động tại nhiều khu vực địa lý khác nhau thì báo cáo chính yếu phải căn cứ vào thông tin
về khu vực địa lý và báo cáo thứ yếu
phải căn cứ vào thông tin về lĩnh vực kinh doanh.
25. Cơ cấu tổ chức và quản lý nội bộ của
doanh nghiệp và hệ thống báo cáo tài chính nội bộ cho Ban Giám đốc thường là cơ
sở để nhận biết nguồn và tính chất chủ yếu của các rủi ro và các tỷ suất sinh
lời khác nhau của doanh nghiệp. Đó là cơ sở để xác định xem báo cáo bộ phận nào
là chính yếu và báo cáo bộ phận nào là thứ yếu ngoại trừ các trường hợp quy định
dưới đây:
a) Nếu rủi ro và tỷ suất sinh lời của
doanh nghiệp bị tác động mạnh bởi cả sự
khác nhau về sản phẩm và dịch vụ do doanh nghiệp đó sản xuất ra và về khu vực
địa lý mà doanh nghiệp này đang hoạt động được chứng minh bởi "phương pháp ma
trận" đối với việc quản lý doanh nghiệp và báo cáo nội bộ cho Ban Giám đốc, sau
đó doanh nghiệp sử dụng lĩnh vực kinh doanh
là báo cáo chính yếu và khu vực địa lý là báo cáo thứ yếu;
và
b) Nếu cơ cấu tổ chức và quản lý của doanh
nghiệp và hệ thống báo cáo tài chính nội bộ cho Ban Giám đốc không dựa trên sự
khác nhau về sản phẩm và dịch vụ hoặc về khu vực địa lý thì Ban Giám đốc cần
phải quyết định xem liệu các rủi ro và lợi ích kinh tế của doanh nghiệp liên
quan nhiều hơn đến sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp đó sản xuất ra hay liên
quan nhiều hơn đối với các khu vực địa lý mà doanh nghiệp này hoạt động. Kết quả
là Ban Giám đốc phải chọn lĩnh vực kinh doanh hoặc khu vực địa lý để lập báo cáo
bộ phận chính yếu.
26. Phần lớn các doanh nghiệp căn cứ vào rủi
ro và lợi ích kinh tế để xác định cơ cấu
tổ chức và quản lý của mình. Cơ cấu tổ chức, quản lý và hệ thống báo cáo
tài chính nội bộ cung cấp bằng chứng về khả năng rủi ro và lợi ích kinh tế chủ yếu phục vụ cho mục đích lập báo cáo bộ
phận của doanh nghiệp. Doanh nghiệp thường báo cáo thông tin bộ phận trong báo
cáo tài chính của mình trên cùng một cơ sở khi lập báo cáo nội bộ lên Ban Giám
đốc. Khả năng rủi ro và lợi ích kinh tế trở thành khuôn mẫu xác định báo cáo bộ
phận chính yếu hay thứ yếu.
27. Việc trình bày theo "phương pháp ma trận"
khi các thông tin về lĩnh vực kinh doanh và khu vực địa lý đều được báo cáo theo
bộ phận chính yếu và có phần thuyết minh đầy đủ các thông tin cho mỗi cơ sở lập
báo cáo. Phương pháp ma trận cung cấp thông tin hữu ích nếu rủi ro và tỷ suất
sinh lời bị tác động mạnh bởi cả sự khác biệt về sản phẩm và dịch vụ mà doanh
nghiệp sản xuất ra và bởi cả khu vực địa lý mà doanh nghiệp hoạt động.
Trong một số trường hợp,
cơ cấu tổ chức và báo cáo tài chính nội
bộ của doanh nghiệp có thể thiết lập không phụ thuộc vào sự khác biệt về sản
phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp sản xuất ra và khu vực địa lý mà doanh nghiệp
hoạt động. Ví dụ, báo cáo tài chính nội bộ được thiết lập trên cơ sở các pháp
nhân kinh tế mà các pháp nhân này sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ với tỷ
suất sinh lời khác nhau. Trường hợp này các thông tin bộ phận của báo cáo tài
chính nội bộ sẽ không đáp ứng được mục đích của Chuẩn mực này. Theo đó, đoạn
25(b) yêu cầu Ban Giám đốc doanh nghiệp phải xác định xem liệu rủi ro và lợi ích
kinh tế của doanh nghiệp có liên quan nhiều đến lĩnh vực kinh doanh hay khu vực
địa lý làm cơ sở để doanh nghiệp lựa chọn báo cáo bộ phận nào là chính yếu. Mục
đích của sự lựa chọn trên là để đạt được mức độ so sánh hợp lý với các doanh
nghiệp khác và đáp ứng nhu cầu cung cấp đầy đủ thông tin tài chính cấp thiết cho
nhà đầu tư, các chủ nợ và các đối tượng khác khi xem xét về rủi ro và lợi ích
kinh tế liên quan đến lĩnh vực kinh doanh và khu vực địa lý của doanh
nghiệp.
CÁC LĨNH VỰC KINH DOANH VÀ KHU VỰC ĐỊA
LÝ
29. Các bộ phận được lập theo lĩnh vực kinh
doanh và khu vực địa lý của doanh nghiệp dùng để lập báo cáo cho bên ngoài phải
là các đơn vị nằm trong cơ cấu tổ chức
của doanh nghiệp đó. Thông tin bộ phận do các đơn vị này lập để giúp Ban Giám
đốc đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và đưa ra quyết định điều
hành và quản lý trong tương lai của doanh nghiệp ngoại trừ các nhân tố được quy định trong đoạn
30.
30. Nếu cơ cấu tổ chức và quản lý của doanh
nghiệp và hệ thống báo cáo tài chính nội bộ cho Ban Giám đốc được thiết lập
không dựa trên lĩnh vực kinh doanh và khu vực địa lý (đoạn 25b) thì Ban Giám đốc
phải lựa chọn lĩnh vực kinh doanh hoặc khu vực địa lý làm báo cáo chính yếu. Khi
đó, Ban Giám đốc phải căn cứ vào các nhân tố theo định nghĩa trong đoạn 09 của
Chuẩn mực này chứ không phải căn cứ vào hệ thống báo cáo tài chính nội bộ của
doanh nghiệp để xác định lĩnh vực kinh doanh hay khu vực địa lý phải lập báo cáo
bộ phận. Các nhân tố này phải đáp ứng các yêu cầu sau:
a) Nếu một hay một số bộ phận được báo cáo
là lĩnh vực kinh doanh hoặc khu vực địa lý thoả mãn các yêu cầu của đoạn 09 thì
không cần phân chia chi tiết hơn để lập báo cáo bộ
phận;
b) Đối với các bộ phận không thỏa mãn các
yêu cầu của đoạn 09, thì Ban Giám đốc doanh nghiệp cần phải xem xét đến việc
phân chia các bộ phận chi tiết hơn để báo cáo
thông tin theo lĩnh vực kinh doanh hoặc theo khu vực địa lý phù hợp đoạn
09; và
c) Nếu báo cáo theo bộ phận chi tiết đáp
ứng các yêu cầu của đoạn 09 thì đoạn 32
và 33 quy định các căn cứ để xác định các bộ phận chi tiết có thể báo
cáo.
31. Theo Chuẩn mực này, hầu
hết các doanh nghiệp sẽ xác định lĩnh vực kinh doanh và khu vực địa lý theo đơn
vị tổ chức có báo cáo cho Ban Giám đốc để phục vụ cho việc đánh giá hoạt động
của mỗi doanh nghiệp và để quyết định phân bổ nguồn lực trong tương lai. Các bộ
phận có thể lập báo cáo không theo lĩnh vực kinh doanh hoặc khu vực địa lý, thì
doanh nghiệp phải phân chia bộ phận chi tiết hơn để báo cáo thông tin tài chính
về lĩnh vực kinh doanh và khu vực địa lý.
CÁC BỘ PHẬN CẦN BÁO CÁO
32. Hai hay nhiều lĩnh vực kinh doanh hoặc
khu vực địa lý tương đương có thể được kết hợp thành một lĩnh vực kinh doanh hay
một khu vực địa lý. Hai hay nhiều lĩnh vực kinh doanh hoặc khu vực địa lý được
coi là tương đương khi:
a) Tương đương về tình hình tài
chính;
b) Có chung phần lớn các nhân tố quy định
trong đoạn 09;
33. Một lĩnh vực kinh
doanh hay khu vực địa lý cần được xác định là một bộ phận phải báo cáo khi phần
lớn doanh thu phát sinh từ bán hàng ra
ngoài đồng thời thoả mãn một trong các điều kiện sau:
a) Tổng Doanh thu của bộ phận từ việc bán hàng
ra ngoài và từ giao dịch với các bộ phận khác phải chiếm từ 10% trở lên trên
tổng doanh thu của tất cả bộ phận, hoặc
b) Kết quả kinh doanh của bộ phận này bất kể lãi
(hay lỗ) chiếm từ 10 % trở lên trên tổng lãi (hay lỗ) của tất cả các bộ phận có
lãi (hoặc trên tổng lỗ của tất cả các bộ phận lỗ) nếu đại lượng nào có giá trị
tuyệt đối lớn hơn, hoặc
c) Tài sản của bộ phận chiếm từ 10 % trở lên
trên tổng tài sản của tất cả các bộ phận.
34. Đối với các bộ phận
có mức dưới 10% theo quy định trong đoạn 33:
a) Bộ phận đó có thể báo
cáo được mà không tính đến yếu tố quy mô nếu thông tin của bộ phận đó là cần
thiết cho người sử dụng báo cáo tài chính;
b) Nếu bộ phận đó có thể
được kết hợp với các bộ phận tương đương khác ; và
c) Nếu các bộ phận còn lại được báo cáo
thành một khoản mục riêng.
35. Nếu tổng doanh thu bán hàng ra ngoài của
doanh nghiệp được phân bổ cho các bộ phận có thể được báo cáo thấp hơn 75% tổng
số doanh thu của doanh nghiệp hoặc doanh thu của tập đoàn thì phải xác định thêm
bộ phận cần báo cáo, kể cả khi bộ phận đó không đáp ứng được tiêu chuẩn 10%
trong đoạn 33, cho tới khi đạt được ít nhất 75% tổng số doanh thu của doanh
nghiệp hoặc tập đoàn được tính cho các bộ phận báo cáo
được.
36. Mức 10% trong Chuẩn mực này không phải là
ngưỡng để xác định mức trọng yếu của báo cáo tài chính mà là cơ sở để xác định
bộ phận phải báo cáo theo lĩnh vực kinh doanh và khu vực địa
lý.
37. Việc giới hạn đối với các bộ phận cần báo
cáo phần lớn doanh thu từ việc bán hàng và cung cấp dịch vụ ra bên ngoài không
có nghĩa là các giai đoạn khác nhau của quy trình sản xuất khép kín phải được
xác định như là các bộ phận kinh doanh riêng biệt. Một số ngành có thể lập báo
cáo bộ phận cho các hoạt động trong quy trình sản xuất khép kín như là các bộ
phận kinh doanh riêng biệt mặc dù các bộ phận này không tạo ra doanh thu từ việc
bán hàng và cung cấp dịch vụ ra bên ngoài. Ví dụ, Tổng Công ty dầu khí có thể
lập báo cáo bộ phận cho các hoạt động khai thác và sản xuất, hoạt động lọc dầu
và bán hàng là hai bộ phận kinh doanh riêng biệt cho dù hầu hết hay toàn bộ các
sản phẩm khai thác dầu thô được chuyển giao cho bộ phận lọc dầu của doanh
nghiệp.
38. Chuẩn mực này khuyến khích nhưng không bắt buộc
việc lập báo cáo bộ phận cho các hoạt động có quy trình sản xuất khép
kín.
39. Nếu báo cáo tài chính nội bộ coi các giai
đoạn khác nhau của quy trình sản xuất khép kín là một bộ phận kinh doanh riêng
biệt nhưng báo cáo ra bên ngoài không trình bày là bộ phận kinh doanh riêng biệt
thì bộ phận bán hàng được kết hợp với bộ phận mua để thành bộ phận báo cáo ra
bên ngoài, trừ khi không thể thực hiện
được.
40. Một bộ phận được báo cáo trong năm trước
vì đạt ngưỡng 10% nhưng năm hiện tại không đạt ngưỡng 10% thì vẫn là bộ phận
phải báo cáo trong năm hiện tại, nếu Ban Giám đốc đánh giá bộ phận này vẫn có
tầm quan trọng trong năm tiếp theo.
41. Nếu một bộ phận được xác định là có thể
báo cáo trong năm nay do đạt ngưỡng 10% thì
thông tin của bộ phận này năm trước cần phải được trình bày lại để cung cấp số
liệu so sánh cho người sử dụng báo cáo mặc dù bộ phận đó không đạt 10% trong năm
trước, trừ khi không thể thực hiện được.
CHÍNH SÁCH KẾ TOÁN CỦA BỘ PHẬN
42. Thông tin bộ phận phải được lập và trình
bày phù hợp với chính sách kế toán áp
dụng cho việc lập và trình bày báo cáo tài chính hợp nhất hoặc báo cáo
tài chính của doanh nghiệp.
43. Chính sách kế toán mà
Ban Giám đốc doanh nghiệp sử dụng để lập báo cáo tài chính hợp nhất hoặc báo cáo
tài chính của doanh nghiệp là chính sách kế toán mà Ban Giám đốc cho là phù hợp
nhất để lập báo cáo ra bên ngoài doanh nghiệp. Mục đích của việc trình bày thông
tin bộ phận là để giúp người sử dụng báo cáo tài chính hiểu rõ và đánh giá được
doanh nghiệp một cách toàn diện hơn, nên khi lập và trình bày thông tin bộ phận,
chuẩn mực này yêu cầu sử dụng các chính sách kế toán mà Ban Giám đốc đã chọn lựa
để lập và trình bày báo cáo tài chính của doanh nghiệp hoặc báo cáo tài chính
hợp nhất.
Chuẩn mực này cho phép
việc trình bày các thông tin bộ phận bổ sung được lập trên cơ sở khác với chính
sách kế toán áp dụng đối với báo cáo tài chính hợp nhất hoặc báo cáo tài chính
của doanh nghiệp khi thoả mãn 2 điều kiện:
a) Các thông tin được báo cáo tài chính nội
bộ cho Ban Giám đốc nhằm đưa ra quyết định về việc phân bổ các nguồn lực vào bộ
phận và đánh giá hoạt động của bộ phận đó; và
b) Cơ sở lập thông tin bộ phận bổ sung được
trình bày rõ ràng.
Tài sản do hai hay nhiều
bộ phận sử dụng cần phải phân bổ cho các bộ phận đó khi doanh thu và các chi phí
có liên quan tới tài sản được phân bổ cho các bộ phận.
Cách thức phân bổ tài sản, nợ phải trả, doanh
thu và chi phí cho các bộ phận phụ thuộc vào tính chất của khoản mục hay hoạt
động do bộ phận đó tiến hành và quyền tự chủ của bộ phận đó. Không áp dụng một
tiêu thức chung cho tất cả các doanh nghiệp. Việc phân bổ tài sản, nợ phải trả,
doanh thu và chi phí có liên quan đến hai hay nhiều bộ phận, phải dựa trên cơ sở
hợp lý. Các định nghĩa về doanh thu, chi phí, tài sản và nợ phải trả bộ phận có
liên quan với nhau và kết quả phân bổ theo đó cũng phải nhất quán: Các tài sản
sử dụng chung được phân bổ cho các bộ phận khi doanh thu và chi phí có liên quan
tới tài sản đó cũng được phân bổ cho các bộ phận này. Ví dụ: Một tài sản được
coi là tài sản của bộ phận khi phần khấu hao của tài sản đó được tính vào chi
phí khi xác định kết quả kinh doanh của bộ phận.
TRÌNH BÀY
47. Trong chuẩn mực này,
các đoạn từ 48 đến 61 quy định về trình bày đối với các bộ phận báo cáo được coi
là bộ phận chính yếu. Các đoạn từ 62 đến 66 quy định về yêu cầu cần trình bày
đối với các bộ phận báo cáo được coi là bộ phận thứ yếu. Việc khuyến khích các
doanh nghiệp trình bày toàn bộ các thông tin đối với mỗi bộ phận thứ yếu như yêu
cầu đối với bộ phận chính yếu được xác định trong các đoạn từ 48 đến 61. Các
đoạn từ 67 đến 76 quy định các vấn đề cần thuyết minh về báo cáo bộ phận.
Báo cáo đối với bộ phận chính yếu
48.
Các yêu cầu về trình bày nêu trong các đoạn từ 49 đến 61 cần phải được áp
dụng cho mỗi bộ phận cần báo cáo dựa
vào báo cáo bộ phận chính yếu của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp phải trình
bày doanh thu bộ phận đối với mỗi bộ phận cần báo cáo. Doanh thu bộ phận từ việc
bán hàng và cung cấp dịch vụ cho khách hàng bên ngoài và từ các giao dịch với
các bộ phận khác phải được báo cáo riêng biệt.
Doanh nghiệp phải trình
bày kết quả bộ phận đối với mỗi bộ phận cần báo cáo.
Nếu doanh nghiệp tính
toán được lãi hoặc lỗ thuần của bộ phận hoặc có các chỉ tiêu khác đánh giá khả
năng sinh lời của bộ phận ngoài kết quả bộ phận mà không có sự phân bổ tuỳ tiện,
thì khuyến khích doanh nghiệp trình bày thêm các chỉ tiêu đó kèm theo những diễn
giải phù hợp. Nếu các chỉ tiêu đó được tính toán dựa trên chính sách kế toán
khác với chính sách kế toán áp dụng cho báo cáo tài chính hợp nhất hoặc báo cáo
tài chính của doanh nghiệp thì doanh nghiệp cần trình bày rõ cơ sở tính toán chỉ
tiêu đó trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Khuyến khích doanh nghiệp trình bày thêm các
chỉ tiêu để đánh giá hoạt động của bộ phận: Lợi nhuận gộp trên doanh thu bán
hàng và cung cấp dịch vụ; Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh hoặc lợi nhuận
trước hoặc sau thuế.
Doanh nghiệp phải trình
bày “Tổng giá trị còn lại của tài sản bộ phận” đối với mỗi bộ phận cần báo
cáo.
Doanh nghiệp phải trình
bày “Nợ phải trả bộ phận” đối với mỗi bộ phận cần báo
cáo.
Doanh nghiệp phải trình
bày “Tổng chi phí đã phát sinh trong niên độ để mua tài sản cố định”- tài sản bộ
phận dự kiến sẽ sử dụng nhiều hơn một niên độ (TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô hình và
các tài sản dài hạn khác) đối với mỗi bộ phận cần báo cáo.
Doanh nghiệp phải trình
bày “Tổng chi phí khấu hao TSCĐ và phân bổ chi phí trả trước dài hạn của bộ
phận” trong niên độ đã được tính trong chi phí để tính kết quả bộ phận đối với mỗi bộ phận cần báo
cáo.
Khuyến khích doanh nghiệp
trình bày bản chất và giá trị của các khoản doanh thu và chi phí có quy mô, tính
chất và phạm vi ảnh hưởng đáng kể mà phần thuyết minh này là phù hợp để giải
thích được hoạt động trong niên độ của mỗi bộ phận cần báo cáo.
Các khoản mục doanh thu và chi phí từ các hoạt
động có tính chất, quy mô đáng kể cần được thuyết minh để giải thích các hoạt
động của doanh nghiệp đó trong niên độ, thì tính chất và giá trị các khoản mục
đó phải trình bày riêng rẽ. Quy định tại đoạn 57 không thay đổi việc phân loại
các khoản mục doanh thu và chi phí từ các hoạt động thông thường sang hoạt động
khác hoặc thay đổi cách tính các khoản mục đó.
Đối với mỗi bộ phận cần
báo cáo, doanh nghiệp phải trình bày tổng giá trị các khoản chi phí lớn không
bằng tiền, ngoại trừ chi phí khấu hao và chi phí phân bổ đã được thuyết minh
riêng rẽ theo quy định tại đoạn 56.
Nếu doanh nghiệp đưa ra
các thuyết minh về luồng tiền bộ phận theo quy định của Chuẩn mực số 24 “Báo cáo
lưu chuyển tiền tệ” thì không phải trình bày tổng chi phí khấu hao và chi phí
phân bổ theo quy định tại đoạn 56 và các chi phí không bằng tiền theo quy định
tại đoạn 59.
Doanh nghiệp phải trình
bày bảng đối chiếu giữa số liệu của các bộ phận và số liệu tổng cộng trong báo
cáo tài chính của doanh nghiệp hoặc báo cáo tài chính hợp nhất. Trong bảng đối
chiếu này các số liệu không thuộc các bộ phận báo cáo phải được gộp vào một cột.
Doanh nghiệp phải đối chiếu doanh thu bộ phận so với tổng doanh thu bán hàng ra
bên ngoài trong đó nêu rõ số doanh thu bán hàng ra bên ngoài chưa được báo cáo ở
bất kỳ bộ phận nào; kết quả kinh doanh
của bộ phận với tổng kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp và với lợi nhuận thuần của doanh nghiệp; tài sản bộ phận
phải được đối chiếu với tổng tài sản của doanh nghiệp; nợ phải trả của bộ phận
phải đối chiếu với tổng nợ phải trả của doanh nghiệp.
Báo cáo đối với bộ phận thứ yếu
Các đoạn từ 63 đến 66 quy định về các yêu cầu
cần trình bày đối với các bộ phận báo cáo được coi là bộ phận thứ yếu của doanh
nghiệp, như sau:
Nếu báo cáo bộ phận chính
yếu được lập theo lĩnh vực kinh doanh, thì báo cáo bộ phận thứ yếu được lập theo
quy định trong đoạn 63;
Nếu báo cáo bộ phận chính
yếu của doanh nghiệp được lập theo khu vực địa lý dựa trên vị trí của tài sản
(nơi sản phẩm của doanh nghiệp được sản xuất hoặc nơi các dịch vụ của doanh
nghiệp hình thành) thì báo cáo bộ phận thứ yếu được lập theo quy định trong đoạn
64 và 65;
Nếu báo cáo bộ phận chính
yếu được lập theo khu vực địa lý dựa trên vị trí của khách hàng (thị trường nơi
các sản phẩm của doanh nghiệp được bán hoặc nơi mà các dịch vụ được cung cấp)
thì báo cáo bộ phận thứ yếu được lập theo quy định trong đoạn 64 và
66;
Nếu báo cáo bộ phận chính
yếu được lập theo lĩnh vực kinh doanh thì
báo cáo bộ phận thứ yếu phải gồm các thông tin
sau:
Doanh thu bộ phận bán
hàng ra bên ngoài theo khu vực địa lý dựa trên vị trí của khách hàng, nếu doanh
thu bán hàng ra bên ngoài của mỗi bộ phận đó chiếm từ 10% trở lên trên tổng
doanh thu của doanh nghiệp bán hàng ra bên ngoài;
Tổng giá trị còn lại của
tài sản bộ phận theo vị trí của tài sản, nếu tài sản của mỗi bộ phận đó chiếm từ
10% trở lên trên tổng tài sản của toàn bộ các khu vực địa lý;
và
Tổng chi phí đã phát sinh
trong niên độ để mua tài sản cố định – tài sản bộ phận dự kiến sẽ sử dụng nhiều hơn một niên độ (TSCĐ hữu hình,
TSCĐ vô hình và các tài sản dài hạn khác) theo vị trí của tài sản, nếu tài sản
của bộ phận đó chiếm từ 10% trở lên trên tổng tài sản của các bộ
phận.
Nếu báo cáo bộ phận chính yếu được lập theo
khu vực địa lý (dựa trên vị trí của tài sản hay vị trí của khách hàng) thì báo
cáo bộ phận thứ yếu cũng phải thuyết minh các thông tin sau đối với lĩnh vực
kinh doanh có doanh thu từ việc bán hàng ra bên ngoài chiếm từ 10% trở lên trên
tổng doanh thu từ bán hàng ra bên ngoài
của doanh nghiệp, hoặc tài sản bộ phận chiếm từ 10% trở lên trên tổng tài sản
của các bộ phận:
Doanh thu bộ phận bán
hàng ra bên
ngoài;
Tổng giá trị còn lại của
tài sản bộ phận; và
Tổng chi phí phát sinh
trong niên độ để mua tài sản cố định – tài sản bộ phận dự kiến sẽ sử dụng nhiều
hơn một niên độ (TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô hình, tài sản dài hạn
khác).
65. Nếu báo cáo bộ phận
chính yếu được lập theo khu vực địa lý dựa trên vị trí của tài sản, và vị trí
của khách hàng của doanh nghiệp khác với vị trí của tài sản của doanh nghiệp thì
doanh nghiệp cần phải báo cáo doanh thu bán hàng ra bên ngoài cho mỗi bộ phận
theo khu vực địa lý dựa trên vị trí của khách hàng mà doanh thu từ việc bán hàng
cho khách hàng bên ngoài của nó chiếm từ 10% trở lên trên tổng doanh thu bán
hàng ra bên ngoài của doanh nghiệp.
66. Nếu báo cáo bộ phận
chính yếu được lập theo khu vực địa lý dựa trên vị trí của khách hàng, và tài
sản của doanh nghiệp được đặt tại các khu vực địa lý khác với khách hàng của doanh nghiệp, thì doanh
nghiệp cần phải thuyết minh các thông tin dưới đây đối với mỗi khu vực địa lý
dựa trên vị trí của tài sản mà doanh thu bán hàng ra bên ngoài hoặc tài sản của
bộ phận đó chiếm từ 10% trở lên trên tổng doanh thu bán hàng ra bên ngoài hoặc
tổng tài sản của doanh nghiệp:
Tổng giá trị còn lại của
tài sản bộ phận theo khu vực địa lý của tài sản; và
Tổng chi phí phát sinh
trong kỳ để mua tài sản cố định – tài sản bộ phận dự kiến sẽ sử dụng nhiều hơn
một niên độ (TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô hình, tài sản dài hạn khác) theo vị trí của
tài sản.
Các thuyết minh khác
Nếu một lĩnh vực kinh
doanh hoặc một khu vực địa lý mà thông tin được báo cáo cho Ban Giám đốc không
phải là một bộ phận phải báo cáo do bộ phận đó thu được phần lớn doanh thu từ
việc bán hàng cho các bộ phận khác, tuy nhiên doanh thu của bộ phận này từ việc
bán hàng ra bên ngoài chiếm từ 10% trở lên trên tổng doanh thu của doanh nghiệp
bán hàng ra bên ngoài, doanh nghiệp này cũng cần phải thuyết minh về doanh thu
từ việc: Bán hàng ra bên ngoài và bán hàng cho các bộ phận nội bộ
khác.
Để xác định và báo cáo
doanh thu bộ phận từ các giao dịch với các bộ phận khác, các khoản chuyển giao
giữa các bộ phận cần phải được tính toán trên cơ sở là doanh nghiệp này thực sự
được sử dụng để định giá các khoản chuyển nhượng đó. Cơ sở cho việc định giá các
khoản chuyển giao giữa các bộ phận đó và bất cứ sự thay đổi liên quan cần phải
được thuyết minh trong báo cáo tài chính.
Những thay đổi về chính
sách kế toán được áp dụng cho việc trình bày báo cáo bộ phận có ảnh hưởng trọng
yếu lên các thông tin bộ phận cần phải được thuyết minh. Thông tin bộ phận của
kỳ trước được trình bày cho mục đích so sánh cần phải được trình bày lại, kể cả
tính chất và lý do thay đổi (nếu có). Các tác động về tài chính cũng phải được
trình bày nếu có thể xác định được một cách hợp lý. Nếu doanh nghiệp thay đổi
việc xác định các bộ phận báo cáo và không công bố thông tin bộ phận kỳ trước
theo căn cứ mới thì để đáp ứng mục đích so sánh, doanh nghiệp phải báo cáo thông
tin bộ phận dựa trên cả căn cứ mới và căn cứ cũ.
Doanh nghiệp phải thay
đổi chính sách kế toán khi tình hình thực tế yêu cầu, theo yêu cầu của cơ quan
có thẩm quyền hoặc nếu việc thay đổi chính sách kế toán sẽ hợp lý hơn đối với
các sự kiện hoặc các nghiệp vụ trong báo cáo tài chính của doanh
nghiệp.
Những thay đổi về chính sách kế toán được áp
dụng ở doanh nghiệp có tác động tới các thông tin bộ phận phải được áp dụng hồi
tố và các thông tin kỳ trước phải được điều chỉnh. Khi áp dụng phương pháp này,
các thông tin bộ phận của kỳ trước sẽ được trình bày.
Một số thay đổi về chính sách kế toán có liên
quan cụ thể đến việc báo cáo bộ phận, như: Các thay đổi trong việc xác định các
bộ phận và các thay đổi về cơ sở phân bổ doanh thu và chi phí vào các bộ phận.
Những thay đổi đó có thể tác động đáng kể lên các thông tin bộ phận được báo cáo
nhưng sẽ không làm thay đổi tổng số các thông tin tài chính được báo cáo đối với
toàn bộ doanh nghiệp. Để giúp người sử dụng báo cáo tài chính nắm được những
thay đổi này và để đánh giá được các xu hướng, những thông tin bộ phận của kỳ
trước được bao gồm trong báo cáo tài chính để phục vụ cho mục đích so sánh được
nêu rõ, nếu có thể sẽ phản ánh được chính sách kế toán
mới.
Quy định ở đoạn 68 phục vụ cho mục đích lập
báo cáo bộ phận. Các khoản chuyển giao nội bộ cần phải được xác định trên cơ sở
là doanh nghiệp thực sự đã từng định giá
các khoản chuyển giao nội bộ đó. Nếu doanh nghiệp thay đổi phương pháp đã sử
dụng để định giá khoản chuyển giao, thì đó không phải là thay đổi về chính sách
kế toán mà dữ liệu bộ phận kỳ trước cần phải được nêu rõ theo đoạn 69. Tuy
nhiên, đoạn 68 yêu cầu phải thuyết minh những thay đổi.
Doanh nghiệp cần báo cáo
các loại sản phẩm và dịch vụ trong mỗi lĩnh vực kinh doanh được báo cáo và thành
phần của mỗi khu vực địa lý được báo cáo, cả chính yếu và thứ yếu, nếu không
diễn giải ngược lại trong báo cáo tài chính.
Đánh giá tác động của những vấn đề đó như là
sự thay đổi về nhu cầu, thay đổi về giá đầu vào và các nhân tố sản xuất khác.
Việc phát triển các sản phẩm lựa chọn thay thế và các quy trình kinh doanh, cần
phải nắm được các hoạt động của bộ phận đó. Để đánh giá được ảnh hưởng của những
thay đổi về môi trường kinh tế, chính trị và tỷ lệ sinh lời của một khu vực địa
lý, điều quan trọng là phải hiểu được thành phần của khu vực địa lý
đó.
Các bộ phận được báo cáo năm trước nhưng năm
nay không còn đáp ứng được ngưỡng định lượng (ví dụ: do sự giảm sút về nhu cầu
hoặc một sự thay đổi về chiến lược quản lý hoặc do một phần các hoạt động của bộ
phận được bán hoặc được kết hợp với các bộ phận khác) thì không được báo cáo một
cách tách biệt. Doanh nghiệp cần giải thích lý do tại sao một bộ phận được báo
cáo năm trước nhưng năm nay lại không được báo cáo nhằm giúp người sử dụng báo
cáo dự đoán được xu hướng vận động của doanh nghiệp như sự sụt giảm về thị
trường và những thay đổi trong các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp,…
./.
CHUẨN MỰC SỐ 29 HAY ĐỔI CHÍNH SÁCH KẾ TOÁN,ƯỚC TÍNH KẾ TOÁN VÀ CÁC SAI
SÓT
(Ban hành và công bố theo Quyết định số 12/2005/ QĐ-BTC ngày 15/02/2005
của Bộ trưởng Bộ Tài chính)
QUY ĐỊNH CHUNG
01.Mục đích của Chuẩn mực này là quy định và hướng dẫn các nguyên tắc,
phương pháp kế toán và trình bày sự thay đổi trong các chính sách kế toán, các
ước tính kế toán và sửa chữa các sai sót để doanh nghiệp có thể lập và trình bày
báo cáo tài chính một cách nhất quán. Chuẩn mực này cũng nhằm mục đích nâng cao
tính phù hợp, độ tin cậy của các báo cáo tài chính của doanh nghiệp và khả năng
so sánh các báo cáo tài chính của doanh nghiệp giữa các kỳ và với báo cáo tài
chính của các doanh nghiệp khác.
02. Chuẩn mực này áp dụng để xử lý những thay đổi trong các chính sách
kế toán, các ước tính kế toán và sửa chữa sai sót của các kỳ kế toán
trước.
03. Việc lựa chọn áp dụng các chính sách kế toán và trình bày các chính
sách kế toán được thực hiện theo quy định tại Chuẩn mực kế toán số 21 “Trình bày
báo cáo tài chính”. Ảnh hưởng về thuế của việc sửa chữa các sai sót kỳ trước và
điều chỉnh hồi tố đối với những thay đổi trong chính sách kế toán được kế toán
và trình bày phù hợp với Chuẩn mực kế toán số 17 “Thuế thu nhập doanh
nghiệp”.
04. Các thuật ngữ trong chuẩn mực này được hiểu như
sau:
Chính sách kế toán: Là các nguyên tắc, cơ sở và phương pháp kế toán cụ thể được doanh nghiệp
áp dụng trong việc lập và trình bày báo cáo tài
chính.
Thay đổi ước tính kế toán: Là việc điều chỉnh giá trị ghi sổ của tài sản, nợ phải trả hoặc giá trị
tiêu hao định kỳ của tài sản được tạo ra từ việc đánh giá tình trạng hiện thời
và lợi ích kinh tế trong tương lai cũng như nghĩa vụ liên quan đến tài sản và nợ
phải trả đó. Những thay đổi trong ước tính kế toán do có các thông tin mới không
phải là sửa chữa các sai sót.
Bỏ sót hoặc sai sót trọng yếu: Việc bỏ sót hoặc sai sót được coi là trọng yếu nếu chúng có thể làm sai
lệch đáng kể báo cáo tài chính, làm ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người
sử dụng báo cáo tài chính. Mức độ trọng yếu phụ thuộc vào quy mô và tính chất
của các bỏ sót hoặc sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Quy mô, tính
chất của khoản mục là nhân tố quyết định đến tính trọng
yếu.
Sai sót của kỳ trước: Là những sai sót hoặc bỏ sót trong báo cáo tài chính tại một hay nhiều
kỳ trước do không sử dụng hoặc sử dụng không đúng các thông
tin:
(a) Sẵn có tại thời điểm báo cáo tài chính của các kỳ đó được phép công
bố;
(b) Có thể thu thập và sử dụng để lập và trình bày báo cáo tài chính
đó.
Các sai sót bao gồm sai sót do tính toán, áp dụng sai các chính sách kế
toán, bỏ quên, hiểu hoặc diễn giải sai các sự việc và gian
lận.
Áp dụng hồi tố: Là việc áp dụng một chính sách kế toán mới đối với các giao dịch, sự
kiện phát sinh trước ngày phải thực hiện các chính sách kế toán
đó.
Điều chỉnh hồi tố: Là việc điều chỉnh những ghi nhận, xác định giá trị và trình bày các
khoản mục của báo cáo tài chính như thể các sai sót của kỳ trước chưa hề xảy
ra.
Tính không hiện thực: Một yêu cầu được coi là không hiện thực khi doanh nghiệp không thể áp
dụng được yêu cầu đó sau rất nhiều nỗ lực, cố gắng. Việc áp dụng hồi tố đối với
các thay đổi trong chính sách kế toán hoặc thực hiện điều chỉnh hồi tố nhằm sửa
chữa các sai sót của kỳ trước là không hiện thực nếu:
(a) Ảnh hưởng của việc áp dụng hồi tố và điều chỉnh hồi tố là không thể
xác định được;
(b) Việc áp dụng hồi tố và điều chỉnh hồi tố đòi hỏi phải đặt giả thiết
về ý định của Ban Giám đốc trong thời kỳ đó;
(c) Việc áp dụng hồi tố và điều chỉnh hồi tố đòi hỏi một ước tính đáng
kể và không phân biệt được các thông tin sau đây với các thông tin
khác:
- Cung cấp bằng chứng của hoàn
cảnh tại ngày mà các khoản mục này được ghi nhận, được xác định giá trị và được
trình bày; và
- Sẵn có tại thời điểm báo cáo
tài chính của kỳ trước được phép công bố.
Áp dụng phi hồi tố đối với thay đổi trong chính sách kế toán và ghi nhận ảnh hưởng của việc
thay đổi các ước tính kế toán là:
(a) Áp dụng chính sách kế toán mới đối với các giao dịch và sự kiện phát
sinh kể từ ngày có sự thay đổi chính sách kế toán;
(b) Ghi nhận ảnh hưởng của việc thay đổi ước tính kế toán trong kỳ hiện
tại và tương lai do ảnh hưởng của sự thay đổi.
NỘI DUNG CHUẨN MỰC
Thay đổi chính sách kế toán
Tính nhất quán của chính sách kế toán
05. Doanh nghiệp phải lựa chọn và áp dụng chính sách kế toán nhất quán
đối với các giao dịch, sự kiện tương tự, trừ khi có chuẩn mực kế toán khác yêu
cầu hoặc cho phép phân loại các giao dịch, sự kiện tương tự thành các nhóm nhỏ
và áp dụng chính sách kế toán khác nhau cho các nhóm này. Trường hợp này, một
chính sách kế toán phù hợp sẽ được lựa chọn và áp dụng nhất quán đối với mỗi
nhóm.
Thay đổi chính sách kế toán
06. Doanh nghiệp chỉ được thay đổi chính sách kế toán
khi :
(a) Có sự thay đổi theo quy định của pháp luật hoặc của chuẩn mực kế
toán và chế độ kế toán; hoặc
(b) Sự thay đổi sẽ dẫn đến báo cáo tài chính
cung cấp thông tin tin cậy và thích hợp hơn về ảnh hưởng của các giao dịch và sự
kiện đối với tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh và lưu chuyển
tiền tệ của doanh nghiệp.
07. Người sử dụng báo cáp tài chính cần phải so sánh được báo cáo tài
chính của doanh nghiệp qua nhiều kỳ để xác định xu hướng biến động tình hình tài
chính, kết quả hoạt động kinh doanh và lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp. Do
đó, chính sách kế toán cần được áp dụng nhất quán giữa các kỳ, trừ khi có sự
thay đổi chính sách kế toán theo quy định tại đoạn 06.
08. Những vấn đề sau đây không phải là thay đổi chính sách kế
toán:
(a) Việc áp dụng một chính sách kế toán cho các giao dịch, sự kiện có sự
khác biệt về cơ bản so với các giao dịch, sự kiện đó đã xảy ra trước
đây;
(b) Việc áp dụng các chính sách kế toán mới cho các giao dịch, sự kiện
chưa phát sinh trước đó hoặc không trọng yếu.
09. Việc đánh giá lại tài sản cố định theo quy định của Nhà nước được đề
cập trong Chuẩn mực kế toán số 03 “Tài
sản cố định hữu hình” và Chuẩn mực kế toán số 04 “Tài sản cố định vô hình” là
một thay đổi trong chính sách kế toán nhưng được xử lý như một nghiệp vụ íanh
giá lại TSCĐ theo chuẩn mực số 03 hoặc 04, chứ không theo quy định của Chuẩn mực
này.
Áp dụng các thay đổi trong chính sách kế toán
10. Việc áp dụng các thay đổi trong chính sách kế toán được thực hiện
trong các trường hợp sau:
(a) Doanh nghiệp phải thực hiện thay đổi chính sách kế toán do áp dụng
lần đầu các quy định của pháp luật hoặc chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán theo
các hướng dẫn chuyển đổi cụ thể (nếu có) của pháp luật, chuẩn mực kế toán, chế
độ kế toán đó;
(b) Khi doanh nghiệp thay đổi chính sách kế toán do áp dụng lần đầu các
quy định của pháp luật hoặc chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán nhưng không có các
hướng dẫn chuyển đổi cụ thể cho sự thay đổi đó, hoặc tự nguyện thay đổi chính
sách kế toán thì phải áp dụng hồi tố chính sách kế toán
mới.
Áp dụng hồi
tố
11. Khi sự thay đổi chính sách kế toán được áp dụng hồi tố theo đoạn
10(a) hoặc 10(b) thì doanh nghiệp phải điều chỉnh số dư đầu kỳ các khoản mục bị
ảnh hưởng đã được trình bày trong phần vốn chủ sở hữu của kỳ sớm nhất và các số
liệu so sánh cho mỗi kỳ trước cũng phải được trình bày như thể đã được áp dụng
chính sách kế toán mới.
Giới hạn áp dụng hồi tố
12. Theo quy định tại đoạn 10(a) và 10(b), những thay đổi chính sách kế
toán phải được áp dụng hồi tố, trừ khi không thể xác định được ảnh hưởng cụ thể
của từng kỳ hoặc ảnh hưởng lũy kế của sự thay đổi.
13. Nếu tại thời điểm đầu kỳ hiện tại không thể xác định được ảnh hưởng
lũy kế của việc áp dụng chính sách kế toán mới cho tất cả các kỳ trước đó, doanh
nghiệp phải điều chỉnh hồi tố các thông tin so sánh theo chính sách kế toán mới
cho kỳ sớm nhất mà doanh nghiệp có thể thực hiện được.
14. Khi không thể áp dụng
hồi tố một chính sách kế toán mới do không thể xác định được ảnh hưởng lũy kế
của việc áp dụng chính sách kế toán đó cho tất cả các kỳ trước đó, thì theo quy
định tại đoạn 13, doanh nghiệp phải áp dụng hồi tố chính sách mới kể từ kỳ sớm
nhất mà doanh nghiệp có thể thực hiện áp dụng hồi tố. Việc thay đổi chính sách
kế toán vẫn được thực hiện ngay cả khi không thể áp dụng hồi tố cho các kỳ
trước. Những hướng dẫn khi không thể áp dụng chính sách kế toán mới đối với một
hoặc nhiều kỳ trước được quy định từ đoạn 30 đến 33.
Thay đổi ước tính kế toán
15. Nhiều khoản mục trong
báo cáo tài chính của doanh nghiệp không thể xác định được một cách tin cậy mà
chỉ có thể ước tính. Ước tính kế toán là một quá trình xét đoán dựa trên những
thông tin tin cậy nhất và mới nhất tại thời điểm đó. Ví dụ cần thực hiện các ước
tính kế toán đối với:
(a) Các khoản phải thu khó đòi;
(b) Giá trị hàng lỗi thời
tồn kho;
(c) Thời gian sử dụng hữu
ích hoặc cách thức sử dụng TSCĐ làm cơ sở tính khấu hao;
(d) Nghĩa vụ bảo
hành.
16. Việc sử dụng ước tính
kế toán với độ tin cậy hợp lý là một phần không thể thiếu trong việc lập báo cáo
tài chính và không vì là ước tính kế toán mà bị xem là kém tin cậy.
17. Ước tính kế toán cần
được xem xét lại nếu các căn cứ thực hiện ước tính có thay đổi hoặc do có thêm
thông tin hay kinh nghiệm mới. Về bản chất, việc xem xét lại một ước tính kế
toán không liên quan đến kỳ kế toán trước và không phải là việc sửa chữa một sai
sót.
18. Thay đổi cách thức
xác định thông tin là thay đổi về chính sách kế toán và không phải là thay đổi
ước tính kế toán. Khi khó xác định một thay đổi là thay đổi chính sách kế toán
hay thay đổi ước tính kế toán thì thay đổi này được coi là thay đổi ước tính kế
toán.
19. Các thay đổi ước tính kế toán, trừ những thay đổi quy định tại đoạn
20, sẽ được áp dụng phi hồi tố và ghi nhận vào Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh:
(a) Của kỳ có thay đổi, nếu thay đổi chỉ ảnh hưởng đến kỳ hiện tại;
hoặc
(b) Của kỳ có thay đổi và các kỳ sau đó, nếu thay đổi ảnh hưởng đến các
kỳ này.
20. Nếu sự thay đổi ước tính kế toán dẫn đến thay đổi tài sản, nợ phải
trả, hoặc thay đổi một khoản mục trong vốn chủ sở hữu thì thay đổi ước tính kế
toán đó sẽ được ghi nhận bằng cách điều chỉnh giá trị ghi sổ của tài sản, nợ
phải trả hay khoản mục thuộc vốn chủ sở hữu liên quan.
21. Việc điều chỉnh phi
hồi tố đối với ảnh hưởng của thay đổi ước tính kế toán có nghĩa là thay đổi chỉ
được áp dụng cho giao dịch, sự kiện kể từ ngày thay đổi ước tính kế toán. Thay
đổi ước tính kế toán có thể chỉ ảnh hưởng đến Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh của kỳ hiện tại, hoặc có thể ảnh hưởng đến Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh của cả kỳ hiện tại và các kỳ sau đó.
Ví dụ, thay đổi ước tính
giá trị khoản phải thu khó đòi chỉ ảnh hưởng đến lãi, lỗ của kỳ hiện tại và do
đó được ghi nhận vào kỳ hiện tại. Ngược lại, thay đổi ước tính thời gian sử dụng
hữu ích hoặc cách thức sử dụng TSCĐ làm cơ sở tính khấu hao sẽ ảnh hưởng đến chi
phí khấu hao của cả kỳ hiện tại và các kỳ sau. Trong cả hai trường hợp, ảnh
hưởng của thay đổi đối với kỳ hiện tại được ghi nhận vào Báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh của kỳ hiện tại, còn những ảnh hưởng đối với các kỳ tương lai
được ghi nhận vào Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của các kỳ tương
lai.
Sai sót
22. Sai sót có thể phát
sinh từ việc ghi nhận, xác định giá trị, trình bày và thuyết minh các khoản mục
trên báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính được coi là không phù hợp với chuẩn
mực kế toán và chế độ kế toán nếu chúng có các sai sót trọng yếu hoặc các sai
sót không trọng yếu nhưng cố ý trình bày tình hình tài chính, kết quả hoạt động
kinh doanh hay các luồng tiền theo một hướng khác. Những sai sót của kỳ hiện tại
được phát hiện trong kỳ đó phải được sửa chữa trước khi báo cáo tài chính được
phép công bố. Nếu sai sót trọng yếu được phát hiện ở kỳ sau thì sai sót này phải
được điều chỉnh vào số liệu so sánh được trình bày trong báo cáo tài chính của
kỳ phát hiện ra sai sót (xem các đoạn từ 23 đến 28).
23. Doanh nghiệp phải điều chỉnh hồi tố những sai sót trọng yếu liên
quan đến các kỳ trước vào báo cáo tài chính phát hành ngay sau thời điểm phát
hiện ra sai sót bằng cách:
(a) Điều chỉnh lại số liệu so sánh nếu sai sót thuộc kỳ lấy số liệu so
sánh; hoặc
(b) Điều chỉnh số dư đầu kỳ của tài sản, nợ phải trả và các khoản mục
thuộc vốn chủ sở hữu của kỳ lấy số liệu so sánh, nếu sai sót thuộc kỳ trước kỳ
lấy số liệu so sánh.
Giới hạn của điều chỉnh hồi tố
24. Sai sót của các kỳ trước được sửa chữa bằng cách điều chỉnh hồi tố,
trừ khi không thể xác định được ảnh hưởng của sai sót đến từng kỳ hay ảnh hưởng
lũy kế của sai sót.
25. Khi không thể xác định được ảnh hưởng của sai sót đến từng kỳ, doanh
nghiệp phải điều chỉnh số dư đầu kỳ của tài sản, nợ phải trả và các khoản mục
thuộc vốn chủ sở hữu của kỳ sớm nhất (có thể chính là kỳ hiện tại) mà doanh
nghiệp xác định được ảnh hưởng của sai sót .
26. Khi không thể xác định được ảnh hưởng lũy kế của sai sót tính đến
thời điểm đầu kỳ hiện tại, doanh nghiệp phải điều chỉnh hồi tố số liệu so sánh
để sửa chữa sai sót kể từ kỳ sớm nhất mà đơn vị xác định được ảnh hưởng
này.
27. Việc sửa chữa sai sót
của kỳ trước không được thực hiện bằng cách điều chỉnh vào Báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh của kỳ phát hiện ra sai sót. Tất cả số liệu so sánh cần phải
được điều chỉnh lại nếu có thể thực hiện được.
28. Khi không thể xác
định được ảnh hưởng của một sai sót như sai sót khi áp dụng một chính sách kế
toán đối với các kỳ quá khứ, doanh nghiệp phải điều chỉnh hồi tố thông tin so
sánh trong báo cáo tài chính của kỳ sớm nhất mà doanh nghiệp xác định được ảnh
hưởng của sai sót theo quy định tại đoạn 26. Việc sửa chữa sai sót không được bỏ
qua phần điều chỉnh lũy kế đối với tài sản, nợ phải trả và các khoản mục thuộc
vốn chủ sở hữu trước kỳ đó. Những trường hợp không thể sửa chữa sai sót cho một
hay nhiều kỳ trước được quy định từ đoạn 30 đến 33.
29. Sửa chữa sai sót khác
với thay đổi ước tính kế toán. Ước tính kế toán về bản chất là những ước tính
gần đúng, cần được xem xét lại khi có thêm thông tin mới. Ví dụ, việc ghi nhận
lãi hay lỗ khi có kết luận cụ thể về một khoản nợ chưa xác định không phải là
sửa chữa sai sót.
Tính không hiện thực của việc áp dụng hồi tố và điều chỉnh hồi
tố
30. Trong một số trường hợp, không thể điều chỉnh thông tin cho một hay
nhiều kỳ trong quá khứ để có số liệu so sánh với kỳ hiện tại. Ví dụ không thể
thu thập dữ liệu của các kỳ trong quá khứ để có thể áp dụng hồi tố hoặc phi hồi
tố một chính sách kế toán mới theo quy định tại đoạn 32-33 hoặc điều chỉnh hồi
tố để sửa chữa các sai sót của các kỳ trước hoặc không thể tạo dựng lại được các
thông tin này.
31. Trong nhiều trường hợp cần thực hiện ước tính kế toán khi áp dụng
chính sách kế toán mới đối với các khoản mục của báo cáo tài chính được ghi nhận
và trình bày thể hiện các giao dịch hoặc nghiệp vụ kinh tế. Ước tính thực hiện
ngay sau ngày kết thúc niên độ thường mang tính chủ quan. Việc ước tính trở nên
khó khăn hơn khi áp dụng hồi tố các chính sách kế toán hoặc điều chỉnh hồi tố
các sai sót thuộc các kỳ trước và các giao dịch và nghiệp vụ kinh tế bị ảnh
hưởng đó phát sinh từ rất lâu. Mục đích của ước tính kế toán liên quan đến các
kỳ trước cũng giống với ước tính cho kỳ hiện tại là nhằm phản ánh phù hợp với
hoàn cảnh tại thời điểm các giao dịch và sự kiện kinh tế phát
sinh.
32. Khi áp dụng hồi tố một chính sách kế toán mới hoặc điều chỉnh hồi tố
một sai sót đòi hỏi phải phân biệt được các thông tin sau đây với các thông tin
khác:
(a) Thông tin cung cấp bằng chứng về hoàn cảnh tại ngày phát sinh giao
dịch hoặc nghiệp vụ kinh tế;
(b) Thông tin sẵn có tại thời điểm báo cáo tài chính của các kỳ trong
quá khứ được phát hành.
Đối với một số ước tính kế toán, như ước tính giá trị hợp lý, không căn
cứ vào thời giá hay các thông tin đầu vào có thể quan sát được thì rất khó có
thể đánh giá được các thông tin này. Khi áp dụng hồi tố hoặc điều chỉnh hồi tố,
nếu ước tính trọng yếu cũng không phân biệt được hai loại thông tin này thì
không thể áp dụng hồi tố chính sách kế toán hoặc sửa chữa hồi tố các sai sót của
kỳ trước.
33. Không sử dụng những nhận thức có được ở các kỳ
sau:
(a) Khi áp dụng chính sách kế toán mới hoặc sửa chữa sai sót của các kỳ
trước;
(b) Khi đưa ra giả định về ý định của Ban Giám đốc trong kỳ
trước;
(c) Khi ước tính giá trị được ghi nhận, xác định và thuyết minh trong kỳ
trước.
Ví dụ 1: Khi doanh nghiệp sửa chữa sai sót trong kỳ trước về việc xác
định giá trị tài sản tài chính khi nó đang được phân loại là các khoản đầu tư
giữ đến ngày đáo hạn theo chuẩn mực kế toán “Các công cụ tài chính: Ghi nhận và
xác định giá trị”, doanh nghiệp không được thay đổi cơ sở của việc xác định giá
trị đối với kỳ đó dù rằng Ban Giám đốc sau đó lại quyết định không giữ các khoản
đầu tư tới ngày đáo hạn.
Ví dụ 2: Khi doanh nghiệp sửa chữa sai sót của kỳ trước liên quan đến
việc tính toán nghĩa vụ trên số ngày nghỉ ốm lũy kế của nhân viên, phải bỏ qua
thông tin về dịch cúm xảy ra sau khi báo cáo tài chính đó được phát hành. Trường
hợp sửa chữa các thông tin so sánh cho các kỳ trong quá khứ đòi hỏi phải có các
ước tính đáng kể, tuy nhiên điều này không cản trở việc điều chỉnh hoặc sửa chữa
các thông tin so sánh.
Trình bày
Trình bày về thay đổi chính sách kế toán
34. Khi áp dụng lần đầu một chính sách kế toán có ảnh hưởng đến kỳ hiện
tại, một kỳ nào đó trong quá khứ hoặc các kỳ trong tương lai, doanh nghiệp phải
trình bày những thông tin sau:
(a) Tên chính sách kế toán;
(b) Hướng dẫn chuyển đổi chính sách kế toán;
(c) Bản chất của sự thay đổi chính sách kế toán;
(d) Mô tả các qui định của hướng dẫn chuyển đổi (nếu
có);
(e) Ảnh hưởng của việc thay đổi chính sách kế toán đến các kỳ trong
tương lai (nếu có);
(f) Các khoản được điều chỉnh vào kỳ hiện tại và mỗi kỳ trước,
như:
- Từng khoản mục trên báo cáo tài chính bị ảnh hưởng;
- Chỉ số lãi trên cổ phiếu nếu doanh nghiệp áp dụng Chuẩn mực kế toán
“Lãi trên cổ phiếu”;
(g) Khoản điều chỉnh cho các kỳ trước của kỳ được trình bày trên báo cáo
tài chính;
(h) Trình bày lý do và mô tả chính sách kế toán đó được áp dụng như thế nào và bắt đầu từ
khi nào nếu không thể áp dụng hồi tố theo quy định của đoạn 10(a) hoặc 10(b) đối
với một kỳ nào đó trong qúa khứ, hoặc đối với kỳ sớm nhất.
Báo cáo tài chính của các kỳ
tiếp theo không phải trình bày lại các thông tin này.
35. Khi chính sách kế toán được doanh nghiệp tự nguyện thay đổi có ảnh
hưởng đến kỳ hiện tại hoặc một kỳ kế toán nào đó trong qúa khứ hoặc các kỳ trong
tương lai, doanh nghiệp phải trình bày những thông tin
sau:
(a) Bản chất của sự thay đổi chính sách kế
toán;
(b) Lý do của việc áp dụng chính sách kế toán mới đem lại thông tin đáng
tin cậy và phù hợp hơn;
(c) Các khoản được điều chỉnh vào kỳ hiện tại và mỗi kỳ trước
như:
- Từng khoản mục trên báo cáo
tài chính bị ảnh hưởng; và
- Chỉ số lãi trên cổ phiếu nếu doanh nghiệp áp dụng Chuẩn mực kế toán
“Lãi trên cổ phiếu”;
(d) Khoản điều chỉnh liên quan đến các kỳ sớm nhất;
(e) Nếu việc áp dụng hồi tố theo yêu cầu của đoạn 10(a) hoặc 10(b) là
không thể thực hiện được đối với một kỳ nào đó trong qúa khứ, hoặc kỳ trước kỳ
trình bày, thì phải trình bày lí do và mô tả chính sách kế toán đó được áp dụng
như thế nào và bắt đầu từ khi nào.
Báo cáo tài chính của các kỳ tiếp theo không phải trình bày lại các
thông tin này.
Trình bày về thay đổi ước tính
kế toán
36. Doanh nghiệp phải trình bày tính chất và giá trị của các thay đổi
ước tính kế toán có ảnh hưởng đến kỳ hiện tại, dự kiến ảnh hưởng đến các kỳ
trong tương lai, trừ khi không thể xác định được thì phải trình bày lý
do.
Trình bày sai sót của các kỳ trước
37. Khi thực hiện quy định tại đoạn 23, doanh nghiệp phải trình bày các
thông tin sau:
(a) Bản chất của sai sót thuộc các kỳ trước;
(b) Khoản điều chỉnh đối với mỗi kỳ trước trong báo cáo tài
chính:
- Từng khoản mục trên báo cáo
tài chính bị ảnh hưởng;
- Chỉ số lãi trên cổ phiếu nếu doanh nghiệp áp dụng Chuẩn mực kế toán
“Lãi trên cổ phiếu”;
(c) Giá trị điều chỉnh vào đầu kỳ của kỳ lấy số liệu so sánh được trình
bày trên báo cáo tài chính;
(d) Nếu không thực hiện được điều chỉnh hồi tố đối với một kỳ cụ thể
trong qúa khứ, cần trình bày lý do, mô tả cách thức và thời gian sửa chữa sai
sót.
Báo cáo tài chính của các kỳ tiếp theo không phải trình bày lại những
thông tin này./.