Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 28
CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM SỐ 28: BÁO CÁO BỘ PHẬNCHUẨN MỰC KẾ TOÁN
VIỆT NAM SỐ 28
BÁO CÁO BỘ
PHẬN
(Ban hành và công bố theo Quyết định số
12/2005/QĐ-BTC
ngày 15 tháng 02 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, và
có hiệu lực thi hành từ ngày 23/03/2005
)
QUY ĐỊNH CHUNG
01. Mục đích của
chuẩn mực này là quy định nguyên tắc và phương pháp lập báo cáo các thông tin
tài chính theo bộ phận, lĩnh vực kinh doanh và các khu vực địa lý khác nhau của
doanh nghiệp nhằm hỗ trợ người sử dụng báo cáo tài chính:
a) Hiểu rõ về tình hình hoạt động các năm
trước của doanh nghiệp;
b) Đánh giá đúng về
những rủi ro và lợi ích kinh tế của doanh nghiệp; và
c) Đưa ra những đánh
giá hợp lý về doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp cung cấp các nhóm sản
phẩm và dịch vụ hoặc hoạt động trong các khu vực địa lý khác nhau có tỷ lệ sinh
lời, cơ hội tăng trưởng, triển vọng và rủi ro khác nhau. Thông tin về các loại
sản phẩm, dịch vụ tại các khu vực địa lý khác nhau được gọi là thông tin bộ
phận. Thông tin bộ phận cần thiết cho việc đánh giá rủi ro và lợi ích kinh tế
của doanh nghiệp có cơ sở ở nước ngoài hoặc doanh nghiệp có phạm vi hoạt động
trên nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước. Thông tin bộ phận cũng cần thiết cho
người sử dụng báo cáo tài chính.
02. Chuẩn mực này áp dụng cho
việc lập và trình bày đầy đủ hơn báo cáo tài chính năm phù hợp với các Chuẩn mực
kế toán Việt Nam.
03. Báo cáo tài chính bộ phận cũng bao gồm Bảng
cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền
tệ và Bản thuyết minh báo cáo tài chính như quy định trong Chuẩn mực số 21
“Trình bày báo cáo tài chính”.
04. Chuẩn mực này áp dụng cho
doanh nghiệp có chứng khoán trao đổi công khai và doanh nghiệp đang phát hành
chứng khoán trên thị trường chứng khoán.
05. Khuyến khích các doanh nghiệp không phát hành hoặc không có chứng
khoán trao đổi công khai áp dụng chuẩn mực này.
06. Nếu doanh nghiệp không phát
hành hoặc không có chứng khoán trao đổi công khai tự nguyện áp dụng chuẩn mực
này thì phải tuân thủ đầy đủ các quy định của chuẩn
mực.
07. Nếu báo cáo tài chính bao gồm
báo cáo tài chính hợp nhất của tập đoàn có chứng khoán được trao đổi công khai
và báo cáo tài chính riêng của công ty mẹ và của một hoặc nhiều công ty con,
thông tin theo bộ phận cần phải trình bày trong báo cáo tài chính hợp nhất. Nếu
công ty con có chứng khoán trao đổi công khai, thì công ty con đó sẽ trình bày
thông tin bộ phận trong báo cáo tài chính riêng của
mình.
08. Các thuật ngữ trong Chuẩn mực
này được hiểu như sau:
Hoạt động kinh doanh: Là các hoạt động tạo ra doanh thu chủ yếu của doanh nghiệp và các hoạt
động khác không phải là hoạt động đầu tư hoặc hoạt động tài
chính.
Chính sách kế toán: Là các nguyên tắc, cơ sở và phương pháp kế toán cụ thể được doanh
nghiệp áp dụng trong việc lập và trình bày báo cáo tài
chính.
Doanh thu:
Là tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh
nghiệp thu được trong kỳ kế toán, phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh
doanh thông thường của doanh nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu.
Định nghĩa bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh và bộ phận theo khu vực địa
lý
09. Bộ phận theo lĩnh vực kinh
doanh: Là một bộ phận có thể phân biệt được của
một doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất hoặc cung cấp sản phẩm, dịch vụ
riêng lẻ, một nhóm các sản phẩm hoặc các dịch vụ có liên quan mà bộ phận này có
rủi ro và lợi ích kinh tế khác với các bộ phận kinh doanh khác. Các nhân tố cần
xem xét để xác định sản phẩm và dịch vụ có liên quan hay không, gồm:
a) Tính chất của hàng hóa và dịch vụ;
b)
Tính chất của quy trình sản xuất;
c) Kiểu hoặc nhóm khách hàng sử dụng các
sản phẩm hoặc dịch vụ;
d) Phương pháp được sử dụng để phân phối
sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ;
e) Điều kiện của môi trường pháp lý như
hoạt động ngân hàng, bảo hiểm hoặc dịch vụ công cộng.
Bộ phận theo khu vực địa lý: Là một bộ phận có thể phân biệt được của một doanh nghiệp tham gia vào
quá trình sản xuất hoặc cung cấp sản phẩm, dịch vụ trong phạm vi một môi trường
kinh tế cụ thể mà bộ phận này có rủi ro và lợi ích kinh tế khác với các bộ phận
kinh doanh trong các môi trường kinh tế khác. Các nhân tố cần xem xét để xác
định bộ phận theo khu vực địa lý, gồm:
a) Tính tương đồng của các điều kiện kinh
tế và chính trị;
b) Mối quan hệ của những hoạt động trong
các khu vực địa lý khác nhau;
c) Tính tương đồng của hoạt động kinh
doanh;
d) Rủi ro đặc biệt có liên quan đến hoạt
động trong một khu vực địa lý cụ thể;
e)
Các quy định về kiểm soát ngoại hối; và
f) Các rủi ro về tiền tệ.
Một bộ phận cần báo cáo: Là một bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh hoặc một bộ phận theo khu vực
địa lý được xác định dựa trên các định nghĩa nêu trên.
10. Một lĩnh vực kinh doanh không bao gồm các sản
phẩm, dịch vụ có rủi ro và lợi ích kinh tế khác biệt đáng kể. Có những điểm
không tương đồng với một hoặc một vài nhân tố trong định nghĩa bộ phận theo lĩnh
vực kinh doanh nhưng các sản phẩm, dịch vụ trong một lĩnh vực kinh doanh phải
tương đồng với phần lớn các nhân tố.
11.
Một khu vực địa
lý không bao gồm các hoạt động trong môi trường kinh tế có rủi ro và lợi ích
kinh tế khác biệt đáng kể. Một khu vực địa lý có thể là một quốc gia, hai hay
nhiều quốc gia hoặc một, hai hay nhiều tỉnh, thành phố trong cả
nước.
12. Cách thức tổ
chức và quản lý của doanh nghiệp phụ thuộc vào các rủi ro có tác động đáng kể
tới doanh nghiệp đó. Đoạn 25 Chuẩn mực này quy định về cơ cấu tổ chức của một
doanh nghiệp và hệ thống báo cáo tài chính nội bộ của doanh nghiệp làm cơ sở xác
định các bộ phận của doanh nghiệp. Rủi ro và lợi ích kinh tế của doanh nghiệp bị
ảnh hưởng bởi khu vực địa lý là vị trí của tài sản, là nơi doanh nghiệp hoạt
động (nơi sản xuất sản phẩm hoặc nơi hình thành dịch vụ của doanh nghiệp) và
cũng bị ảnh hưởng bởi vị trí của khách hàng (nơi sản phẩm của doanh nghiệp được
bán hoặc nơi dịch vụ của doanh nghiệp được cung cấp). Xác định các bộ phận theo
khu vực địa lý dựa trên:
a) Vị trí của tài sản là địa điểm sản xuất
hoặc hình thành dịch vụ của doanh nghiệp; hoặc
b) Vị trí của khách hàng là địa điểm của thị
trường và khách hàng của doanh nghiệp.
13.
Cơ cấu tổ chức
và quản lý của doanh nghiệp là căn cứ để xác định liệu các rủi ro liên quan đến
khu vực địa lý phát sinh từ nơi sản xuất hay nơi tiêu thụ sản phẩm. Doanh nghiệp
căn cứ vào cơ cấu tổ chức và quản lý hoặc vị trí của tài sản hoặc vị trí của
khách hàng để xác định các khu vực địa lý của doanh nghiệp
.
14.
Việc xác định
bộ phận báo cáo theo lĩnh vực kinh doanh hoặc theo khu vực địa lý phụ thuộc vào
đánh giá của Ban Giám đốc doanh nghiệp. Để thực hiện việc đánh giá này, Ban Giám
đốc phải xem xét mục tiêu của việc lập báo cáo tài chính theo bộ phận quy định
trong Chuẩn mực này và các chuẩn mực khác.
Định nghĩa doanh thu, chi phí, kết quả, tài sản và nợ phải trả bộ
phận
15. Các thuật ngữ dưới đây sử dụng
trong Chuẩn mực này được hiểu như sau:
Doanh thu bộ phận: Là doanh thu trình bày trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp được tính trực tiếp hoặc phân bổ cho bộ phận, bao gồm doanh thu bán
hàng và cung cấp dịch vụ ra bên ngoài và doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
cho bộ phận khác của doanh nghiệp. Doanh thu bộ phận không bao
gồm:
a) Thu nhập khác;
b) Doanh thu từ tiền lãi hoặc cổ tức, kể cả tiền lãi thu được trên các
khoản ứng trước hoặc các khoản tiền cho các bộ phận khác vay, trừ khi hoạt động
của bộ phận chủ yếu là hoạt động tài chính; hoặc
c) Lãi từ việc bán các khoản đầu tư hoặc lãi từ việc xoá nợ trừ khi hoạt
động của bộ phận đó chủ yếu là hoạt động tài chính.
Doanh thu của bộ phận bao gồm cả phần lãi hoặc lỗ do đầu tư vào công ty
liên kết, công ty liên doanh hoặc các khoản đầu tư tài chính khác được hạch toán
theo phương pháp vốn chủ sở hữu khi các khoản doanh thu đó nằm trong doanh thu
hợp nhất của tập đoàn.
Chi phí bộ phận: Là chi phí phát sinh từ các hoạt động kinh doanh của bộ phận được tính
trực tiếp cho bộ phận đó và phần chi phí của doanh nghiệp được phân bổ cho bộ
phận đó, bao gồm cả chi phí bán hàng ra bên ngoài và chi phí có liên quan đến
những giao dịch với bộ phận khác của doanh nghiệp. Chi phí bộ phận không bao
gồm:
a) Chi phí khác;
b) Chi phí tiền lãi vay, kể cả tiền lãi phải trả phát sinh đối với khoản
tiền ứng trước hoặc tiền vay từ các bộ phận khác, trừ khi hoạt động của bộ phận
đó chủ yếu là hoạt động tài chính;
c) Lỗ từ việc bán các khoản đầu tư hoặc lỗ từ việc xoá nợ, trừ khi hoạt
động của bộ phận đó chủ yếu là hoạt động tài chính;
d) Phần sở hữu của doanh nghiệp trong khoản lỗ của bên nhận đầu tư do đầu
tư vào các công ty liên kết, công ty liên doanh hoặc các khoản đầu tư tài chính
khác được hạch toán theo phương pháp vốn chủ sở hữu;
e) Chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp; hoặc
f) Chi phí hành chính chung và các chi phí khác phát sinh liên quan đến
toàn bộ doanh nghiệp. Các chi phí doanh nghiệp chi hộ bộ phận được coi là chi
phí bộ phận nếu chi phí đó liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của bộ
phận và những chi phí này có thể được tính trực tiếp hoặc phân bổ vào bộ phận đó
một cách hợp lý.
Đối với bộ phận có hoạt động kinh doanh chủ yếu là hoạt động tài chính,
thì doanh thu và chi phí từ tiền lãi được trình bày trên cơ sở thuần trong báo
cáo bộ phận nếu báo cáo tài chính của doanh nghiệp hoặc báo cáo tài chính hợp
nhất được trình bày trên cơ sở thuần.
Kết quả kinh doanh của bộ phận: Là doanh thu bộ phận trừ (-) chi phí bộ phận. Kết quả kinh doanh của bộ
phận được xác định trước khi tính đến lợi ích của cổ đông thiểu
số.
Tài sản của bộ phận:
Là tài sản đang được bộ phận đó sử dụng
trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh và được tính trực tiếp hoặc được phân
bổ vào bộ phận đó.
Trường hợp kết quả kinh doanh của một bộ
phận có thu nhập từ tiền lãi hay cổ tức thì tài sản của bộ phận đó bao gồm cả
các khoản phải thu, khoản cho vay, các khoản đầu tư tài chính hoặc tài sản khác
tạo ra thu nhập
trên.
Tài sản của bộ phận không bao gồm tài sản
thuế thu nhập hoãn lại.
Tài sản của bộ phận không bao gồm các
khoản dự phòng giảm giá có liên quan do các khoản này được trừ (-) trực tiếp
trong Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp.
Các khoản nợ phải trả bộ phận: Là các khoản nợ trong kinh doanh của bộ phận được tính trực tiếp hoặc
phân bổ vào bộ phận đó.
Trường hợp kết quả của bộ phận có chi phí lãi vay thì nợ phải trả của bộ
phận cũng bao gồm nợ phải trả chịu lãi có liên quan.
Nợ phải trả bộ phận không bao gồm nợ phải trả thuế hoãn
lại.
Chính sách kế toán bộ phận: Là các chính sách kế toán được áp dụng để lập và trình bày báo cáo tài
chính hợp nhất của tập đoàn hoặc doanh nghiệp bao gồm cả chính sách kế toán liên
quan đến lập báo cáo bộ phận.
16.
Định nghĩa về doanh thu, chi phí, tài sản và
nợ phải trả bộ phận bao gồm các khoản mục được tính trực tiếp vào bộ phận và các
khoản mục được phân bổ vào bộ phận. Căn cứ vào hệ thống báo cáo tài chính nội bộ
của mình, doanh nghiệp xác định các khoản mục được tính trực tiếp hoặc được phân
bổ vào bộ phận làm cơ sở xác định doanh thu, chi phí, tài sản và nợ phải trả của
bộ phận được báo cáo.
17. Doanh thu, chi
phí, tài sản hoặc nợ phải trả của bộ phận không được tính và phân bổ một cách
chủ quan mà phải dựa vào định nghĩa về doanh thu, chi phí, tài sản và nợ phải
trả bộ phận quy định trong Chuẩn mực này để tính và phân bổ một cách hợp
lý.
18. Tài sản của bộ
phận gồm: Tài sản lưu động, tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình,
tài sản cố định thuê tài chính dùng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của bộ
phận được phân bổ hoặc khấu hao tính vào chi phí của bộ phận thì tài sản đó cũng
được tính trong tài sản của bộ phận. Tài sản bộ phận không bao gồm các tài sản
được sử dụng chung trong doanh nghiệp hoặc dùng cho trụ sở chính. Tài sản bộ
phận còn bao gồm các tài sản sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh chung
cho hai hay nhiều bộ phận và được tính trực tiếp hoặc phân bổ cho từng bộ phận,
bao gồm cả lợi thế thương mại.
19. Nợ phải trả bộ
phận gồm: Khoản phải trả thương mại, khoản phải trả khác, chi phí phải trả, các
khoản ứng trước của khách hàng. Nợ phải trả bộ phận không bao gồm các khoản đi
vay, nợ thuê tài chính và nợ phải trả khác cho mục đích tài trợ chứ không phải
cho mục đính sản xuất, kinh doanh. Trường hợp chi phí lãi vay tính trong kết quả
kinh doanh bộ phận thì nợ phải trả chịu lãi liên quan được tính trong nợ phải
trả bộ phận. Nợ phải trả bộ phận mà hoạt động chủ yếu của bộ phận đó không phải
là hoạt động tài chính do không bao gồm các khoản vay và các khoản có tính chất
vay. Kết quả bộ phận thể hiện lãi, lỗ từ hoạt động kinh doanh chứ không phải từ
hoạt động tài chính. Các khoản nợ thông thường do trụ sở chính đi vay không thể
tính trực tiếp hoặc phân bổ vào nợ phải trả chịu lãi của bộ phận đó.
20. Việc tính toán, xác định giá trị tài sản và nợ
phải trả bộ phận bao gồm cả những điều chỉnh giá trị ghi sổ khi mua tài sản và
nợ phải trả bộ phận, khoản điều chỉnh của doanh nghiệp mua trong giao dịch hợp
nhất kinh doanh phục vụ cho mục đích lập báo cáo tài chính hợp nhất mà không
được ghi vào báo cáo tài chính riêng của công ty mẹ hoặc công ty con.
21. Việc phân bổ chi phí đã quy định trong các
Chuẩn mực kế toán khác: Chuẩn mực số 02 “Hàng tồn kho” hướng dẫn việc tính và
phân bổ chi phí mua vào hàng tồn kho; Chuẩn mực số 15 “Hợp đồng xây dựng” hướng
dẫn việc tính và phân bổ chi phí vào các hợp đồng xây dựng. Các hướng dẫn này
được sử dụng cho việc tính và phân bổ chi phí vào các bộ
phận.
22. Doanh thu, chi phí, tài sản và nợ phải trả bộ
phận phải được xác định trước khi loại trừ số dư và các giao dịch nội bộ của quá
trình hợp nhất báo cáo tài chính, trừ khi số dư và các giao dịch đó được thực
hiện thuộc nhóm doanh nghiệp của bộ phận riêng lẻ.
23. Chính sách kế toán được sử dụng để lập và
trình bày báo cáo tài chính của doanh nghiệp cũng là chính sách kế toán cơ bản
để lập báo cáo bộ phận. Ngoài ra, chính sách kế toán để lập báo cáo bộ phận còn
bao gồm các chính sách liên quan trực tiếp đến việc lập báo cáo bộ phận, như các
nhân tố xác định bộ phận phải báo cáo, phương pháp định giá các giao dịch liên
bộ phận, cơ sở phân bổ doanh thu và chi phí vào các bộ
phận.
Xác định các bộ phận phải báo
cáo
Báo cáo chính yếu và thứ yếu
24. Tính chất rủi ro và lợi ích
kinh tế của một doanh nghiệp là căn cứ chủ yếu để xác định báo cáo bộ phận chính
yếu (báo cáo đối với bộ phận chính yếu) được lập theo lĩnh vực kinh doanh hay
khu vực địa lý. Nếu rủi ro và tỷ suất sinh lời của doanh nghiệp bị tác động chủ
yếu bởi những khác biệt về sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp đó sản xuất ra
thì báo cáo chính yếu phải căn cứ vào thông tin về lĩnh vực kinh doanh và báo
cáo thứ yếu (báo cáo đối với bộ phận thứ yếu) căn cứ vào thông tin về khu vực
địa lý. Nếu rủi ro và tỷ suất sinh lời của doanh nghiệp bị tác động chủ yếu do
doanh nghiệp hoạt động tại nhiều khu vực địa lý khác nhau thì báo cáo chính yếu phải căn cứ vào thông tin về
khu vực địa lý và báo cáo thứ yếu phải
căn cứ vào thông tin về lĩnh vực kinh doanh.
25. Cơ cấu tổ chức và quản lý nội
bộ của doanh nghiệp và hệ thống báo cáo tài chính nội bộ cho Ban Giám đốc thường
là cơ sở để nhận biết nguồn và tính chất chủ yếu của các rủi ro và các tỷ suất
sinh lời khác nhau của doanh nghiệp. Đó là cơ sở để xác định xem báo cáo bộ phận
nào là chính yếu và báo cáo bộ phận nào là thứ yếu ngoại trừ các trường hợp quy
định dưới đây:
a) Nếu rủi ro và tỷ suất sinh lời
của doanh nghiệp bị tác động mạnh bởi cả
sự khác nhau về sản phẩm và dịch vụ do doanh nghiệp đó sản xuất ra và về
khu vực địa lý mà doanh nghiệp này đang hoạt động được chứng minh bởi "phương
pháp ma trận" đối với việc quản lý doanh nghiệp và báo cáo nội bộ cho Ban Giám
đốc, sau đó doanh nghiệp sử dụng lĩnh vực kinh doanh là báo cáo chính yếu và khu vực địa lý là báo
cáo thứ yếu; và
b) Nếu cơ cấu tổ chức và quản lý
của doanh nghiệp và hệ thống báo cáo tài chính nội bộ cho Ban Giám đốc không dựa
trên sự khác nhau về sản phẩm và dịch vụ hoặc về khu vực địa lý thì Ban Giám đốc
cần phải quyết định xem liệu các rủi ro và lợi ích kinh tế của doanh nghiệp liên
quan nhiều hơn đến sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp đó sản xuất ra hay liên
quan nhiều hơn đối với các khu vực địa lý mà doanh nghiệp này hoạt động. Kết quả
là Ban Giám đốc phải chọn lĩnh vực kinh doanh hoặc khu vực địa lý để lập báo cáo
bộ phận chính yếu.
26. Phần lớn các doanh nghiệp căn cứ vào rủi ro và
lợi ích kinh tế để xác định cơ cấu tổ
chức và quản lý của mình. Cơ cấu tổ chức, quản lý và hệ thống báo cáo tài chính
nội bộ cung cấp bằng chứng về khả năng rủi ro và lợi ích kinh tế chủ yếu phục vụ cho mục đích lập báo cáo bộ
phận của doanh nghiệp. Doanh nghiệp thường báo cáo thông tin bộ phận trong báo
cáo tài chính của mình trên cùng một cơ sở khi lập báo cáo nội bộ lên Ban Giám
đốc. Khả năng rủi ro và lợi ích kinh tế trở thành khuôn mẫu xác định báo cáo bộ
phận chính yếu hay thứ yếu.
27.
Việc trình bày theo "phương pháp ma trận" khi các thông tin về lĩnh vực
kinh doanh và khu vực địa lý đều được báo cáo theo bộ phận chính yếu và có phần
thuyết minh đầy đủ các thông tin cho mỗi cơ sở lập báo cáo. Phương pháp ma trận
cung cấp thông tin hữu ích nếu rủi ro và tỷ suất sinh lời bị tác động mạnh bởi
cả sự khác biệt về sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp sản xuất ra và bởi cả khu
vực địa lý mà doanh nghiệp hoạt động.
28. Trong một số trường hợp, cơ cấu tổ chức và
báo cáo tài chính nội bộ của doanh
nghiệp có thể thiết lập không phụ thuộc vào sự khác biệt về sản phẩm và dịch vụ
mà doanh nghiệp sản xuất ra và khu vực địa lý mà doanh nghiệp hoạt động. Ví dụ,
báo cáo tài chính nội bộ được thiết lập trên cơ sở các pháp nhân kinh tế mà các
pháp nhân này sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ với tỷ suất sinh lời khác
nhau. Trường hợp này các thông tin bộ phận của báo cáo tài chính nội bộ sẽ không
đáp ứng được mục đích của Chuẩn mực này. Theo đó, đoạn 25(b) yêu cầu Ban Giám
đốc doanh nghiệp phải xác định xem liệu rủi ro và lợi ích kinh tế của doanh
nghiệp có liên quan nhiều đến lĩnh vực kinh doanh hay khu vực địa lý làm cơ sở
để doanh nghiệp lựa chọn báo cáo bộ phận nào là chính yếu. Mục đích của sự lựa
chọn trên là để đạt được mức độ so sánh hợp lý với các doanh nghiệp khác và đáp
ứng nhu cầu cung cấp đầy đủ thông tin tài chính cấp thiết cho nhà đầu tư, các
chủ nợ và các đối tượng khác khi xem xét về rủi ro và lợi ích kinh tế liên quan
đến lĩnh vực kinh doanh và khu vực địa lý của doanh
nghiệp.
Các lĩnh vực kinh doanh và khu vực địa lý
29. Các bộ phận được lập theo
lĩnh vực kinh doanh và khu vực địa lý của doanh nghiệp dùng để lập báo cáo cho
bên ngoài phải là các đơn vị nằm trong
cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp đó. Thông tin bộ phận do các đơn vị này lập để
giúp Ban Giám đốc đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và đưa ra quyết
định điều hành và quản lý trong tương lai của doanh nghiệp ngoại trừ các
nhân tố được quy định trong đoạn
30.
30. Nếu cơ cấu tổ chức và quản lý
của doanh nghiệp và hệ thống báo cáo tài chính nội bộ cho Ban Giám đốc được
thiết lập không dựa trên lĩnh vực kinh doanh và khu vực địa lý (đoạn 25b) thì
Ban Giám đốc phải lựa chọn lĩnh vực kinh doanh hoặc khu vực địa lý làm báo cáo
chính yếu. Khi đó, Ban Giám đốc phải căn cứ vào các nhân tố theo định nghĩa
trong đoạn 09 của Chuẩn mực này chứ không phải căn cứ vào hệ thống báo cáo tài
chính nội bộ của doanh nghiệp để xác định lĩnh vực kinh doanh hay khu vực địa lý
phải lập báo cáo bộ phận. Các nhân tố này phải đáp ứng các yêu cầu
sau:
a) Nếu một hay một số bộ phận
được báo cáo là lĩnh vực kinh doanh hoặc khu vực địa lý thoả mãn các yêu cầu của
đoạn 09 thì không cần phân chia chi tiết hơn để lập báo cáo bộ
phận;
b) Đối với các bộ phận không thỏa
mãn các yêu cầu của đoạn 09, thì Ban Giám đốc doanh nghiệp cần phải xem xét đến
việc phân chia các bộ phận chi tiết hơn để báo cáo thông tin theo lĩnh vực kinh doanh hoặc theo
khu vực địa lý phù hợp đoạn 09; và
c) Nếu báo cáo theo bộ phận chi
tiết đáp ứng các yêu cầu của đoạn 09 thì
đoạn 32 và 33 quy định các căn cứ để xác định các bộ phận chi tiết có thể
báo cáo.
31. Theo Chuẩn mực này, hầu hết
các doanh nghiệp sẽ xác định lĩnh vực kinh doanh và khu vực địa lý theo đơn vị
tổ chức có báo cáo cho Ban Giám đốc để phục vụ cho việc đánh giá hoạt động của
mỗi doanh nghiệp và để quyết định phân bổ nguồn lực trong tương lai. Các bộ phận
có thể lập báo cáo không theo lĩnh vực kinh doanh hoặc khu vực địa lý, thì doanh
nghiệp phải phân chia bộ phận chi tiết hơn để báo cáo thông tin tài chính về
lĩnh vực kinh doanh và khu vực địa lý.
Các bộ phận cần báo cáo
32. Hai hay nhiều lĩnh vực kinh
doanh hoặc khu vực địa lý tương đương có thể được kết hợp thành một lĩnh vực
kinh doanh hay một khu vực địa lý. Hai hay nhiều lĩnh vực kinh doanh hoặc khu
vực địa lý được coi là tương đương khi:
a) Tương đương về tình hình tài
chính;
b) Có chung phần lớn các nhân tố
quy định trong đoạn 09;
33. Một lĩnh vực kinh doanh hay khu vực địa lý cần được xác định là một
bộ phận phải báo cáo khi phần lớn doanh thu phát sinh từ bán hàng ra ngoài đồng thời thoả mãn một
trong các điều kiện sau:
a) Tổng Doanh thu của bộ phận từ
việc bán hàng ra ngoài và từ giao dịch với các bộ phận khác phải chiếm từ 10%
trở lên trên tổng doanh thu của tất cả bộ phận,
hoặc
b) Kết quả kinh doanh của bộ
phận này bất kể lãi (hay lỗ) chiếm từ 10 % trở lên trên tổng lãi (hay lỗ) của
tất cả các bộ phận có lãi (hoặc trên tổng lỗ của tất cả các bộ phận lỗ) nếu đại
lượng nào có giá trị tuyệt đối lớn hơn, hoặc
c) Tài sản của bộ phận chiếm từ
10 % trở lên trên tổng tài sản của tất cả các bộ
phận.
34. Đối với các bộ phận có mức dưới 10% theo quy định trong đoạn 33:
a) Bộ phận đó có thể báo cáo được mà không tính đến yếu tố quy mô nếu
thông tin của bộ phận đó là cần thiết cho người sử dụng báo cáo tài
chính;
b) Nếu bộ phận đó có thể được kết hợp với các bộ phận tương đương khác ;
và
c) Nếu các bộ phận còn lại được
báo cáo thành một khoản mục riêng.
35. Nếu tổng doanh thu bán hàng
ra ngoài của doanh nghiệp được phân bổ cho các bộ phận có thể được báo cáo thấp
hơn 75% tổng số doanh thu của doanh nghiệp hoặc doanh thu của tập đoàn thì phải
xác định thêm bộ phận cần báo cáo, kể cả khi bộ phận đó không đáp ứng được tiêu
chuẩn 10% trong đoạn 33, cho tới khi đạt được ít nhất 75% tổng số doanh thu của
doanh nghiệp hoặc tập đoàn được tính cho các bộ phận báo cáo
được.
36. Mức 10% trong Chuẩn mực này không phải là
ngưỡng để xác định mức trọng yếu của báo cáo tài chính mà là cơ sở để xác định
bộ phận phải báo cáo theo lĩnh vực kinh doanh và khu vực địa
lý.
37. Việc giới hạn đối với các bộ phận cần báo cáo
phần lớn doanh thu từ việc bán hàng và cung cấp dịch vụ ra bên ngoài không có
nghĩa là các giai đoạn khác nhau của quy trình sản xuất khép kín phải được xác
định như là các bộ phận kinh doanh riêng biệt. Một số ngành có thể lập báo cáo
bộ phận cho các hoạt động trong quy trình sản xuất khép kín như là các bộ phận
kinh doanh riêng biệt mặc dù các bộ phận này không tạo ra doanh thu từ việc bán
hàng và cung cấp dịch vụ ra bên ngoài. Ví dụ, Tổng Công ty dầu khí có thể lập
báo cáo bộ phận cho các hoạt động khai thác và sản xuất, hoạt động lọc dầu và
bán hàng là hai bộ phận kinh doanh riêng biệt cho dù hầu hết hay toàn bộ các sản
phẩm khai thác dầu thô được chuyển giao cho bộ phận lọc dầu của doanh
nghiệp.
38. Chuẩn mực
này khuyến khích nhưng không bắt buộc việc lập báo cáo bộ phận cho các hoạt động
có quy trình sản xuất khép kín.
39. Nếu báo cáo tài chính nội bộ
coi các giai đoạn khác nhau của quy trình sản xuất khép kín là một bộ phận kinh
doanh riêng biệt nhưng báo cáo ra bên ngoài không trình bày là bộ phận kinh
doanh riêng biệt thì bộ phận bán hàng được kết hợp với bộ phận mua để thành bộ
phận báo cáo ra bên ngoài, trừ khi không
thể thực hiện được.
40. Một bộ phận được báo cáo
trong năm trước vì đạt ngưỡng 10% nhưng năm hiện tại không đạt ngưỡng 10% thì
vẫn là bộ phận phải báo cáo trong năm hiện tại, nếu Ban Giám đốc đánh giá bộ
phận này vẫn có tầm quan trọng trong năm tiếp
theo.
41. Nếu một bộ phận được xác định
là có thể báo cáo trong năm nay do đạt
ngưỡng 10% thì thông tin của bộ phận này năm trước cần phải được trình bày lại
để cung cấp số liệu so sánh cho người sử dụng báo cáo mặc dù bộ phận đó không
đạt 10% trong năm trước, trừ khi không thể thực hiện
được.
Chính sách kế toán của bộ
phận
42. Thông tin bộ
phận phải được lập và trình bày phù hợp với chính sách kế toán áp dụng cho việc lập và trình bày báo cáo tài
chính hợp nhất hoặc báo cáo tài chính của doanh
nghiệp.
43. Chính sách kế
toán mà Ban Giám đốc doanh nghiệp sử dụng để lập báo cáo tài chính hợp nhất hoặc
báo cáo tài chính của doanh nghiệp là chính sách kế toán mà Ban Giám đốc cho là
phù hợp nhất để lập báo cáo ra bên ngoài doanh nghiệp. Mục đích của việc trình
bày thông tin bộ phận là để giúp người sử dụng báo cáo tài chính hiểu rõ và đánh
giá được doanh nghiệp một cách toàn diện hơn, nên khi lập và trình bày thông tin
bộ phận, chuẩn mực này yêu cầu sử dụng các chính sách kế toán mà Ban Giám đốc đã
chọn lựa để lập và trình bày báo cáo tài chính của doanh nghiệp hoặc báo cáo tài
chính hợp nhất.
44. Chuẩn mực này cho phép việc trình bày các
thông tin bộ phận bổ sung được lập trên cơ sở khác với chính sách kế toán áp
dụng đối với báo cáo tài chính hợp nhất hoặc báo cáo tài chính của doanh nghiệp
khi thoả mãn 2 điều kiện:
a) Các thông tin được báo cáo tài chính nội bộ
cho Ban Giám đốc nhằm đưa ra quyết định về việc phân bổ các nguồn lực vào bộ
phận và đánh giá hoạt động của bộ phận đó; và
b) Cơ sở lập thông tin bộ phận bổ sung được
trình bày rõ ràng.
45.
Tài sản do hai hay nhiều bộ phận sử dụng cần phải phân bổ cho các bộ
phận đó khi doanh thu và các chi phí có liên quan tới tài sản được phân bổ cho
các bộ phận.
46. Cách thức phân bổ tài sản, nợ phải trả, doanh
thu và chi phí cho các bộ phận phụ thuộc vào tính chất của khoản mục hay hoạt
động do bộ phận đó tiến hành và quyền tự chủ của bộ phận đó. Không áp dụng một
tiêu thức chung cho tất cả các doanh nghiệp. Việc phân bổ tài sản, nợ phải trả,
doanh thu và chi phí có liên quan đến hai hay nhiều bộ phận, phải dựa trên cơ sở
hợp lý. Các định nghĩa về doanh thu, chi phí, tài sản và nợ phải trả bộ phận có
liên quan với nhau và kết quả phân bổ theo đó cũng phải nhất quán: Các tài sản
sử dụng chung được phân bổ cho các bộ phận khi doanh thu và chi phí có liên quan
tới tài sản đó cũng được phân bổ cho các bộ phận này. Ví dụ: Một tài sản được
coi là tài sản của bộ phận khi phần khấu hao của tài sản đó được tính vào chi
phí khi xác định kết quả kinh doanh của bộ phận.
Trình bày
47. Trong chuẩn mực
này, các đoạn từ 48 đến 61 quy định về trình bày đối với các bộ phận báo cáo
được coi là bộ phận chính yếu. Các đoạn từ 62 đến 66 quy định về yêu cầu cần
trình bày đối với các bộ phận báo cáo được coi là bộ phận thứ yếu. Việc khuyến
khích các doanh nghiệp trình bày toàn bộ các thông tin đối với mỗi bộ phận thứ
yếu như yêu cầu đối với bộ phận chính yếu được xác định trong các đoạn từ 48 đến
61. Các đoạn từ 67 đến 76 quy định các vấn đề cần thuyết minh về báo cáo bộ
phận.
Báo cáo đối với bộ phận chính yếu
48. Các yêu cầu về trình bày nêu
trong các đoạn từ 49 đến 61 cần phải được áp dụng cho mỗi bộ phận cần báo cáo dựa vào báo cáo bộ phận
chính yếu của doanh nghiệp.
49. Doanh nghiệp phải trình bày doanh thu bộ phận đối với mỗi bộ phận cần
báo cáo. Doanh thu bộ phận từ việc bán hàng và cung cấp dịch vụ cho khách hàng
bên ngoài và từ các giao dịch với các bộ phận khác phải được báo cáo riêng
biệt.
50. Doanh nghiệp phải trình bày kết quả bộ phận đối với mỗi bộ phận cần báo
cáo.
51.
Nếu doanh
nghiệp tính toán được lãi hoặc lỗ thuần của bộ phận hoặc có các chỉ tiêu khác
đánh giá khả năng sinh lời của bộ phận ngoài kết quả bộ phận mà không có sự phân
bổ tuỳ tiện, thì khuyến khích doanh nghiệp trình bày thêm các chỉ tiêu đó kèm
theo những diễn giải phù hợp. Nếu các chỉ tiêu đó được tính toán dựa trên chính
sách kế toán khác với chính sách kế toán áp dụng cho báo cáo tài chính hợp nhất
hoặc báo cáo tài chính của doanh nghiệp thì doanh nghiệp cần trình bày rõ cơ sở
tính toán chỉ tiêu đó trong báo cáo tài chính của doanh
nghiệp.
52.
Khuyến khích doanh nghiệp trình bày thêm các
chỉ tiêu để đánh giá hoạt động của bộ phận: Lợi nhuận gộp trên doanh thu bán
hàng và cung cấp dịch vụ; Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh hoặc lợi nhuận
trước hoặc sau thuế.
53. Doanh nghiệp phải trình bày “Tổng giá trị còn lại của tài sản bộ phận”
đối với mỗi bộ phận cần báo cáo.
54. Doanh nghiệp phải trình bày “Nợ phải trả bộ phận” đối với mỗi bộ phận
cần báo cáo.
55. Doanh nghiệp phải trình bày “Tổng chi phí đã phát sinh trong niên độ để
mua tài sản cố định”- tài sản bộ phận dự kiến sẽ sử dụng nhiều hơn một niên độ
(TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô hình và các tài sản dài hạn khác) đối với mỗi bộ phận
cần báo cáo.
56. Doanh nghiệp phải trình bày “Tổng chi phí khấu hao TSCĐ và phân bổ chi
phí trả trước dài hạn của bộ phận” trong niên độ đã được tính trong chi phí để
tính kết quả bộ phận đối với mỗi bộ phận
cần báo cáo.
57. Khuyến khích doanh nghiệp trình bày bản chất và giá trị của các khoản
doanh thu và chi phí có quy mô, tính chất và phạm vi ảnh hưởng đáng kể mà phần
thuyết minh này là phù hợp để giải thích được hoạt động trong niên độ của mỗi bộ
phận cần báo cáo.
58.
Các khoản mục doanh thu và chi phí từ các hoạt
động có tính chất, quy mô đáng kể cần được thuyết minh để giải thích các hoạt
động của doanh nghiệp đó trong niên độ, thì tính chất và giá trị các khoản mục
đó phải trình bày riêng rẽ. Quy định tại đoạn 57 không thay đổi việc phân loại
các khoản mục doanh thu và chi phí từ các hoạt động thông thường sang hoạt động
khác hoặc thay đổi cách tính các khoản mục đó.
59. Đối với mỗi bộ phận cần báo cáo, doanh nghiệp phải trình bày tổng giá
trị các khoản chi phí lớn không bằng tiền, ngoại trừ chi phí khấu hao và chi phí
phân bổ đã được thuyết minh riêng rẽ theo quy định tại đoạn
56.
60. Nếu doanh nghiệp đưa ra các thuyết minh về luồng tiền bộ phận theo quy
định của Chuẩn mực số 24 “Báo cáo lưu chuyển tiền tệ” thì không phải trình bày
tổng chi phí khấu hao và chi phí phân bổ theo quy định tại đoạn 56 và các chi
phí không bằng tiền theo quy định tại đoạn 59.
61. Doanh nghiệp phải trình bày bảng đối chiếu giữa số liệu của các bộ phận
và số liệu tổng cộng trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp hoặc báo cáo tài
chính hợp nhất. Trong bảng đối chiếu này các số liệu không thuộc các bộ phận báo
cáo phải được gộp vào một cột. Doanh nghiệp phải đối chiếu doanh thu bộ phận so
với tổng doanh thu bán hàng ra bên ngoài trong đó nêu rõ số doanh thu bán hàng
ra bên ngoài chưa được báo cáo ở bất kỳ bộ phận nào; kết quả kinh doanh của bộ phận với tổng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và với lợi nhuận thuần của
doanh nghiệp; tài sản bộ phận phải được đối chiếu với tổng tài sản của doanh
nghiệp; nợ phải trả của bộ phận phải đối chiếu với tổng nợ phải trả của doanh
nghiệp.
Báo cáo đối với bộ phận thứ yếu
62.
Các đoạn từ 63 đến 66 quy định về các yêu cầu
cần trình bày đối với các bộ phận báo cáo được coi là bộ phận thứ yếu của doanh
nghiệp, như sau:
a) Nếu báo cáo bộ phận chính yếu được lập
theo lĩnh vực kinh doanh, thì báo cáo bộ phận thứ yếu được lập theo quy định
trong đoạn 63;
b) Nếu báo cáo bộ phận chính yếu của doanh
nghiệp được lập theo khu vực địa lý dựa trên vị trí của tài sản (nơi sản phẩm
của doanh nghiệp được sản xuất hoặc nơi các dịch vụ của doanh nghiệp hình thành)
thì báo cáo bộ phận thứ yếu được lập theo quy định trong đoạn 64 và
65;
c) Nếu báo cáo bộ phận chính yếu được lập
theo khu vực địa lý dựa trên vị trí của khách hàng (thị trường nơi các sản phẩm
của doanh nghiệp được bán hoặc nơi mà các dịch vụ được cung cấp) thì báo cáo bộ
phận thứ yếu được lập theo quy định trong đoạn 64 và 66;
63. Nếu báo cáo bộ phận chính yếu được lập theo lĩnh vực kinh doanh thì báo cáo bộ phận thứ yếu phải gồm các thông
tin sau:
a) Doanh thu bộ phận bán hàng ra bên ngoài theo khu vực địa lý dựa trên vị
trí của khách hàng, nếu doanh thu bán hàng ra bên ngoài của mỗi bộ phận đó chiếm
từ 10% trở lên trên tổng doanh thu của doanh nghiệp bán hàng ra bên
ngoài;
b) Tổng giá trị còn lại của tài sản bộ phận theo vị trí của tài sản, nếu
tài sản của mỗi bộ phận đó chiếm từ 10% trở lên trên tổng tài sản của toàn bộ
các khu vực địa lý; và
c) Tổng chi phí đã phát sinh trong niên độ để mua tài sản cố định – tài sản
bộ phận dự kiến sẽ sử dụng nhiều hơn một
niên độ (TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô hình và các tài sản dài hạn khác) theo vị trí
của tài sản, nếu tài sản của bộ phận đó chiếm từ 10% trở lên trên tổng tài sản
của các bộ phận.
64. Nếu báo cáo bộ phận chính yếu
được lập theo khu vực địa lý (dựa trên vị trí của tài sản hay vị trí của khách
hàng) thì báo cáo bộ phận thứ yếu cũng phải thuyết minh các thông tin sau đối
với lĩnh vực kinh doanh có doanh thu từ việc bán hàng ra bên ngoài chiếm từ 10%
trở lên trên tổng doanh thu từ bán hàng
ra bên ngoài của doanh nghiệp, hoặc tài sản bộ phận chiếm từ 10% trở lên trên
tổng tài sản của các bộ phận:
a) Doanh thu bộ phận bán hàng ra
bên ngoài;
b) Tổng giá trị còn lại của tài sản bộ phận;
và
c) Tổng chi phí phát sinh trong niên độ để mua tài sản cố định – tài sản bộ
phận dự kiến sẽ sử dụng nhiều hơn một niên độ (TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô hình, tài
sản dài hạn khác).
65. Nếu báo cáo bộ phận chính yếu được lập theo khu vực địa lý dựa trên
vị trí của tài sản, và vị trí của khách hàng của doanh nghiệp khác với vị trí
của tài sản của doanh nghiệp thì doanh nghiệp cần phải báo cáo doanh thu bán
hàng ra bên ngoài cho mỗi bộ phận theo khu vực địa lý dựa trên vị trí của khách
hàng mà doanh thu từ việc bán hàng cho khách hàng bên ngoài của nó chiếm từ 10%
trở lên trên tổng doanh thu bán hàng ra bên ngoài của doanh
nghiệp.
66. Nếu báo cáo bộ phận chính yếu được lập theo khu vực địa lý dựa trên
vị trí của khách hàng, và tài sản của doanh nghiệp được đặt tại các khu vực địa
lý khác với khách hàng của doanh nghiệp,
thì doanh nghiệp cần phải thuyết minh các thông tin dưới đây đối với mỗi khu vực
địa lý dựa trên vị trí của tài sản mà doanh thu bán hàng ra bên ngoài hoặc tài
sản của bộ phận đó chiếm từ 10% trở lên trên tổng doanh thu bán hàng ra bên
ngoài hoặc tổng tài sản của doanh nghiệp:
a) Tổng giá trị còn lại của tài sản bộ phận theo khu vực địa lý của tài
sản; và
b) Tổng chi phí phát sinh trong kỳ để mua tài sản cố định – tài sản bộ phận
dự kiến sẽ sử dụng nhiều hơn một niên độ (TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô hình, tài sản
dài hạn khác) theo vị trí của tài sản.
Các thuyết minh khác
67. Nếu một lĩnh vực kinh doanh hoặc một khu vực địa lý mà thông tin được
báo cáo cho Ban Giám đốc không phải là một bộ phận phải báo cáo do bộ phận đó
thu được phần lớn doanh thu từ việc bán hàng cho các bộ phận khác, tuy nhiên
doanh thu của bộ phận này từ việc bán hàng ra bên ngoài chiếm từ 10% trở lên
trên tổng doanh thu của doanh nghiệp bán hàng ra bên ngoài, doanh nghiệp này
cũng cần phải thuyết minh về doanh thu từ việc: Bán hàng ra bên ngoài và bán
hàng cho các bộ phận nội bộ khác.
68. Để xác định và báo cáo doanh thu bộ phận từ các giao dịch với các bộ
phận khác, các khoản chuyển giao giữa các bộ phận cần phải được tính toán trên
cơ sở là doanh nghiệp này thực sự được sử dụng để định giá các khoản chuyển
nhượng đó. Cơ sở cho việc định giá các khoản chuyển giao giữa các bộ phận đó và
bất cứ sự thay đổi liên quan cần phải được thuyết minh trong báo cáo tài
chính.
69. Những thay đổi về chính sách kế toán được áp dụng cho việc trình bày báo
cáo bộ phận có ảnh hưởng trọng yếu lên các thông tin bộ phận cần phải được
thuyết minh. Thông tin bộ phận của kỳ trước được trình bày cho mục đích so sánh
cần phải được trình bày lại, kể cả tính chất và lý do thay đổi (nếu có). Các tác
động về tài chính cũng phải được trình bày nếu có thể xác định được một cách hợp
lý. Nếu doanh nghiệp thay đổi việc xác định các bộ phận báo cáo và không công bố
thông tin bộ phận kỳ trước theo căn cứ mới thì để đáp ứng mục đích so sánh,
doanh nghiệp phải báo cáo thông tin bộ phận dựa trên cả căn cứ mới và căn cứ
cũ.
70.
Doanh nghiệp
phải thay đổi chính sách kế toán khi tình hình thực tế yêu cầu, theo yêu cầu của
cơ quan có thẩm quyền hoặc nếu việc thay đổi chính sách kế toán sẽ hợp lý hơn
đối với các sự kiện hoặc các nghiệp vụ trong báo cáo tài chính của doanh
nghiệp.
71.
Những thay đổi về chính sách kế toán được áp
dụng ở doanh nghiệp có tác động tới các thông tin bộ phận phải được áp dụng hồi
tố và các thông tin kỳ trước phải được điều chỉnh. Khi áp dụng phương pháp này,
các thông tin bộ phận của kỳ trước sẽ được trình bày.
72.
Một số thay đổi về chính sách kế toán có liên
quan cụ thể đến việc báo cáo bộ phận, như: Các thay đổi trong việc xác định các
bộ phận và các thay đổi về cơ sở phân bổ doanh thu và chi phí vào các bộ phận.
Những thay đổi đó có thể tác động đáng kể lên các thông tin bộ phận được báo cáo
nhưng sẽ không làm thay đổi tổng số các thông tin tài chính được báo cáo đối với
toàn bộ doanh nghiệp. Để giúp người sử dụng báo cáo tài chính nắm được những
thay đổi này và để đánh giá được các xu hướng, những thông tin bộ phận của kỳ
trước được bao gồm trong báo cáo tài chính để phục vụ cho mục đích so sánh được
nêu rõ, nếu có thể sẽ phản ánh được chính sách kế toán
mới.
73.
Quy định ở đoạn 68 phục vụ cho mục đích lập
báo cáo bộ phận. Các khoản chuyển giao nội bộ cần phải được xác định trên cơ sở
là doanh nghiệp thực sự đã từng định giá
các khoản chuyển giao nội bộ đó. Nếu doanh nghiệp thay đổi phương pháp đã sử
dụng để định giá khoản chuyển giao, thì đó không phải là thay đổi về chính sách
kế toán mà dữ liệu bộ phận kỳ trước cần phải được nêu rõ theo đoạn 69. Tuy
nhiên, đoạn 68 yêu cầu phải thuyết minh những thay đổi.
74. Doanh nghiệp cần báo cáo các loại sản phẩm và dịch vụ trong mỗi lĩnh vực
kinh doanh được báo cáo và thành phần của mỗi khu vực địa lý được báo cáo, cả
chính yếu và thứ yếu, nếu không diễn giải ngược lại trong báo cáo tài
chính.
75.
Đánh giá tác động của những vấn đề đó như là
sự thay đổi về nhu cầu, thay đổi về giá đầu vào và các nhân tố sản xuất khác.
Việc phát triển các sản phẩm lựa chọn thay thế và các quy trình kinh doanh, cần
phải nắm được các hoạt động của bộ phận đó. Để đánh giá được ảnh hưởng của những
thay đổi về môi trường kinh tế, chính trị và tỷ lệ sinh lời của một khu vực địa
lý, điều quan trọng là phải hiểu được thành phần của khu vực địa lý
đó.
76.
Các bộ phận được báo cáo năm trước nhưng năm
nay không còn đáp ứng được ngưỡng định lượng (ví dụ: do sự giảm sút về nhu cầu
hoặc một sự thay đổi về chiến lược quản lý hoặc do một phần các hoạt động của bộ
phận được bán hoặc được kết hợp với các bộ phận khác) thì không được báo cáo một
cách tách biệt. Doanh nghiệp cần giải thích lý do tại sao một bộ phận được báo
cáo năm trước nhưng năm nay lại không được báo cáo nhằm giúp người sử dụng báo
cáo dự đoán được xu hướng vận động của doanh nghiệp như sự sụt giảm về thị
trường và những thay đổi trong các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp,…
./.
š š š